KINH NGUYỆT ÐĂNG TAM MUỘI
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Nguyên tác: 10 quyển [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]
Hán dịch: Cao Tề, Thiên Trúc Tam tạng Na Liên Ðề Da Xá
Việt dịch: Thích Chánh Lạc
--- o0o ---
QUYỂN 1/10
Tôi nghe như vầy:
Một thời Bà Già Bà ở tại núi Kỳ xà quật, thành Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ kheo là năm ngàn người và tám mươi na do tha Bồ tát, đều là những vị Nhất sanh bổ xứ, trong đó Bồ tát ma ha tát A Thị (Dật) Ða là đứng đầu. Vua Tứ thiên, vua Thích thiên, vua Ðại Phạm thiên, là chủ của thế giới Ta bà cùng với chư thiên tăng thượng phước đức, A tu la tăng thượng oai thế, Long vương, Dạ xoa, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhân... trước sau vây quanh chiêm ngưỡng đức Như Lai.
Khi ấy trong chúng Bồ tát có một vị Bồ tát tên là Ðồng tử Nguyệt quang, quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, trồng các căn lành , tự biết được kiếp trước, tin thích Ðại thừa, an trụ Ðại thừa tương ưng với lòng đại bi, từ tòa đứng dậy trạch áo vai mặt, quỳ gối mặt xuống đất, bạch đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay con có điều muốn hỏi, cúi mong ngài cho phép, để con trừ bỏ nghi kết trong lòng.
Ðức Phật bảo:
–Này đồng tử! Tùy ý ngươi muốn hỏi bất cứ điều gì ta sẽ giải thích cho để ngươi được hoan hỷ. Ta là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết tri kiến, đối vơi tất cả pháp có sức lực, không sợ hãi, được tự tại, cùng tương ưng với tri kiến giải thoát, không chướng ngại.
Này đồng tử! Như Lai không có điều gì mà không biết, không có điều gì mà không thấy, không có điều gì mà không chứng, luôn luôn lựa chọn, biết được vô lượng vô biên thế giới.
Này đồng tử! Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả các câu hỏi đều có thể tùy thuận giải đáp, đều khiến mọi người được hoan hỷ.
Bấy giờ đồng tử dùng kệ để hỏi rằng:
Các đức Phật làm những hạnh gì?
Vì hay thương đời làm ánh sáng
Hay được trí bất khả tư nghị
Cúi mong cứu độ giải thích cho.
Hạnh gì nói được pháp cao này?
Ngưu vương giữa người trời cung kính
Trí tối thượng không thể đo lường
Mong ngài vì con khéo phân biệt
Vì con thâm tín nên thưa hỏi
Chân thật không có tâm quanh co
Không ai có thể chứng biết con
Chỉ có Nhân tôn mới thấy rõ
Con có tâm thắng lạc rộng lớn
Sư tử họ Thích biết hạnh con
Tâm con không vì ngôn ngữ vậy
Mong ngài vì con nói về đạo
Pháp gì hay đưa chư Phật đến
Mà được tăng trưởng trí vô biên
Ðể đạt đến được tất cả pháp
Mong ngài vì con khéo tuyên no í?
Mong nói pháp hạnh con trưởng dưỡng
Khiến được thành tựu trí minh lợi
Quyết lòng trì giới không hủy phạm
Xa lìa tất cả các sợ hãi
Làm sao với giới mà không bỏ?
Làm sao với huệ mà không giảm?
Làm sao an trụ A lan nhã?
Làm sao để được tăng trí huệ?
Làm sao hay vào thắng diệu pháp?
Thích giữ cấm giới không hối hận?
Làm sao với giới không khuyết tổn?
Làm sao để được ba nghiệp tịnh?
Làm sao biết được tánh hữu vi?
Tâm không nhiễm uế, đến Phật đạo?
Làm sao để được thân nghiệp tịnh?
Làm sao trừ được miệng ý ác?
Làm sao lìa được tâm tạp nhiễm?
Cúi mong Thế Tôn nói cho con.
Bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang:
–Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng tương ưng với một pháp thì mau được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, như vậy các pháp đều được thành tựu tức khắc. Thế nào là một pháp? Nếu Bồ tát Ma ha tát đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc. Ðó là tương ưng với một pháp mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, có thể đạt được sự lợi ích của công đức như vậy.
Khi ấy đức Thế Tôn nói bài kệ:
Nếu ai thọ trì một pháp này
Hay thuận Bồ tát chanh tu hành
Nhờ có công đức của pháp này
Mau được thành tựu đạo vô thượng
Với tất cả xứ, tâm vô ngại
Bồ tát dõng mãnh mới làm được
Không hề khởi tư tưởng yêu ghét
Như vậy sẽ được diệu công đức
Nếu hay tu với tâm bình đẳng
Thì sẽ chứng được quả bình đẳng
Pháp hạnh như vậy cũng bình đẳng
Sẽ được tướng dưới chân bằng phẳng
Người tu bình đẳng lìa tâm sân
Hay trừ tất cả phiền não chướng
Do nhân duyên ấy bàn chân bằng
Nên được màu bông sen dưới chân
Ai hay chỉ hiện ở mười phương
Phước đức sáng ngời khắp cõi Phật
Thì được bước lên Tịch diệt địa
Ðiều phục vô lượng các chúng sanh.
Này đồng tử! Bồ tát Ma ha tát đối với tất cả chúng sanh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc, làm con mắt cho thế gian, chứng được tam muội, gọi là tam muội thể tánh các pháp bình đẳng, không hý luận. Nhờ tam muội ấy thành tựu mười pháp. Nhưng gì là mười? Ðó là:
1. Thân giới
2. Khẩu giới
3. Ý giới
4. Nghiệp thanh tịnh
5. Vượt qua các nhân duyên
6. Hiểu rõ các ấm
7. Ðược cõi nước bình đẳng
8. Trừ các nhập tướng
9. Ðoạn diệt các ái
10. Chứng được vô sanh.
Lại có mười pháp:
1. Nhập các pháp tánh
2. Hiển thị các nhân
3. Không hoại các quả
4. Hiện thấy các pháp
5. Tu tập chánh đạo
6. Cùng Phật đồng sanh
7. Trí huệ sáng suốt lanh lợi
8. Ðạt được trí ưa thích của chúng sanh.
9. Ðạt được Pháp trí
10. Nhập trí huệ vô ngại.
Lại có mười pháp:
1. Khéo biết trí văn tự
2. Ðã vượt qua các sự việc
3. Ðược tứ âm thanh
4. Bình đẳng đối với cõi nước
5. Ðược cõi nước bình đẳng, tâm sanh vui thích.
6. Ðược một phần hỷ
7. Ðược tâm không quanh co
8. Ðiều phục oai nghi
9. Ðược tâm thành thật, ngay thẳng
10. Nhan sắc không sân hận.
Lại có mười pháp:
1. Mặt thường vui vẻ
2. Lời nói hòa nhã
3. Trước tiên luôn thăm hỏi
4. Thường không làm biếng
5. Cung kính bậc tôn trưởng
6. Cúng dường bậc tôn trưởng
7. Ðời sống tri túc
8. Tu điều thiện không chán
9. Thanh tịnh sự tà mạng
10. An trụ nơi thanh vắng.
Lại có mười pháp:
1. Trí an trụ khắp nơi
2. Chánh niệm không quên.
3. Ðược trí ấm phương tiện.
4. Trí giới phương tiện.
5. Trí nhập phương tiện.
6. Chứng các thần thông
7. Diệt các phiền não
8. Ðoạn trừ tập khí
9. Tâm thường dõng mãnh
10. Trụ nơi quán bất tịnh.
Lại có mười pháp:
1. Biết phương tiện để phạm.
2. Diệt các dòng hữu
3. Ðoạn các kiết sử.
4. Ðã độ các hữu.
5. Khéo biết kiếp trước.
6. Không nghi nghiệp quả.
7. Tư duy đối vơi pháp.
8. Mong cầu đa văn.
9. Ðược trí lanh lợi.
10. Ðược bậc điều phục.
Lại có mười pháp:
1. Không ỷ lại sự trì giới.
2. Không vọng tưởng phân biệt.
3. Không có khinh tháo.
4. Trụ nơi bất thối.
5. Xuất sanh pháp lành.
6. Nhàm chán pháp ác
7. Không tạo phiền não.
8. Không xả bỏ sự học.
9. Phân biệt các thiền định.
10. Ðược trí ưa thích của tất cả chúng sanh.
Lại có mười pháp:
1. Khéo phân biệt sanh xứ.
2. Ðược trí cùng tận.
3. Khéo biết trí ngôn ngữ
4. Vứt bỏ duyên tục.
5. Nhàm chán ba cõi.
6. Không khởi tâm hạ liệt.
7. Không đắm trước các pháp.
8. Nhiếp thọ chánh pháp.
9. Thủ hộ chánh pháp.
10. Biết luật phương tiện.
Lại có mười pháp:
1. Diệt trừ các sự tranh cãi.
2. Không chống trái.
3. Không tranh tụng, đánh nhau.
4. Nhẫn bình đẳng.
5. Ðược bậc nhẫn.
6. Tự nhiếp nơi nhẫn.
7. Khéo chọn các pháp
8. Tâm thích giới đầy đủ.
9. Quyết định phương tiện, khéo hỏi và đáp.
10. Trí khéo phân biệt nghĩa của câu.
Lại có mười pháp:
1. Trí phương tiện đối với pháp xuất sanh.
2. Phát sanh trí khéo biết nghĩa và phi nghĩa.
3. Trí về đời trước.
4. Trí về đời sau.
5. Trí hiện tại.
6. Trí ba đời bình đẳng.
7. Trí khéo biết tam luân.
8. Tâm an trụ.
9. Thân an trụ
10. Khéo gìn giữ oai nghi.
Lại có mười pháp:
1. Không hủy hoại oai nghi.
2. Phân biệt oai nghi.
3. Oai nghi đoan nghiêm, tao nhã.
4. Khéo hiểu, nói về nghĩa.
5. Ðược thế trí
6. Thích bố thí, không xan tham
7. Tự tay bố thí.
8. Thường cho không ngừng.
9. Cho tất cả.
10. Có tâm xấu hổ.
Lại có mười pháp:
1. Có tâm biết thẹn.
2. Xả bỏ tâm ác.
3. Không bỏ hạnh đầu đà.
4. Ðối vơi đức tin không hề sai lầm.
5. Thường thực hành hạnh vui.
6. Ðem chỗ mình ngồi dâng cho các bậc tôn trưởng.
7. Bỏ tâm kiêu mạn.
8. Khéo nhiếp tâm.
9. Khéo biết tâm tương ưng.
10. Khéo biết tâm khởi.
Lại có mười pháp:
1. Trí khéo biết nghĩa.
2. Trí khéo biết pháp.
3. Xa lìa vô trí.
4. Khéo nhập vào tâm vi tế.
5. Biết tự tánh của tâm.
6. Khéo biết pháp khứ lai phương tiện.
7. Trí khéo biết tất cả ngôn ngữ.
8. Khéo biết từ ngữ sai biệt không trở ngại.
9. Trí phương tiện quyết định được nghĩa.
10. Xả bỏ sự phi nghĩa.
Lại có mười pháp:
1. Thân cận người lành.
2. Cùng làm việc với họ.
3. Nghe theo lời dạy của họ
4. Xa lìa người ác.
5. Thông suốt việc tu thiện.
6. Không đắm trước thiền vị.
7. Du hý thần thông.
8. Ðạt được trí thế gian.
9. Xa lìa sự phô trương giả danh.
10. Không nhàm chán hữu vi.
Lại có mười pháp:
1. Ðược lợi không mừng.
2. Bị suy thối không buồn
3. Ðược khen không vui.
4. Bị chê không lo.
5. Ðược tôn vinh vẫn không thích.
6. Bị hủy báng vãn không nản.
7. Không khổ.
8. Không vui.
9. Không thân cận người tại gia.
10. Không ở trong tăng chúng.
Lại có mười pháp:
1. Bỏ sự không cung kính.
2. Thực hành sự cung kính.
3. Ðầy đủ lễ nghi.
4. Bỏ tâm không lễ nghi.
5. Không nhiễm ô nhà thế tục.
6. Gìn giữ Phật pháp.
7. Thích im lặng, ít nói.
8. Lời nói, hành động không t hô tháo.
9. Cung người đàm luận, khéo dùng phương tiện.
10. Hàng phục các oán thù.
Lại có mười pháp:
1. Khéo biết thời tiết
2. Ðối với các người phàm phu.
3. Không khởi tâm khinh người nghèo hèn.
4. Có người xin liền cho.
5. Với các người nghèo khổ cứ để họ xin, đừng gây chướng ngại.
6. Không khởi tâm ghen ghét người phá giới.
7. Có ý nghĩ muốn cứu người khác.
8. Khéo biết việc mình làm.
9. Nhiếp thọ chánh pháp.
10. Xả bỏ của cải.
Lại có mười pháp:
1. Không kinh doanh tích tụ.
2. Khen ngợi người trì giới.
3. Chê trách người phạm giới.
4. Cung kính sự phụng trì giới, không có tâm dối láo.
5. Tất cả vật sở hữu đều có thể đem cho.
6. Thành tâm khuyên thỉnh.
7. Nói thế nào làm thế ấy.
8. Tôn thờ người trí.
9. Ðối với các pháp quyết định tu hành, hết lòng ưa thích.
10. Ðược trí thí dụ.
Lại có mười pháp:
1. Phương tiện đối với đời trước.
2. Tu điều thuận trước nhất.
3. Có các phương tiện.
4. Ðoạn trừ các tướng
5. Xả bỏ các tưởng.
6. Khéo biết sự tướng.
7. Hay diễn nói các kinh.
8. Khéo biết phương tiện đối với các sự thuận, nghịch.
9. Quyết định đối với chân lý.
10. Chứng được giải thoát.
Lại có mười pháp:
1. Lời nói chân thật, ngay thẳng.
2. Hiển lộ trí của tự tánh.
3. Lời nói không nghi ngờ
4. Buộc tư tưởng nơi “không”.
5. Tu sự vô tướng.
6. Biết tánh vô nguyện.
7. Ðược bốn vô úy.
8. Kiên cố đối với giới.
9. Nhập vào chánh đạo đầy đủ.
10. Ðạt được trí tuệ.
Lại có mười pháp:
1. Buộc tư tưởng vào một duyên.
2. Ít bận tâm về người thân.
3. Không khởi tấm ô trược.
4. Xả bỏ các kiến.
5. Ðược Ðà la ni.
6. Ðược trí.
7. Ðược sự sáng suốt.
8. An trụ.
9. Trụ trì.
10. Chánh cần.
Này đồng tử, đó gọi là Bồ tát ma ha tát từ Tam muội Vô hý luận, thể tánh bình đẳng của các pháp ấy, thành tựu các công đức lọi như vậy.
Này đồng tử, tam muội như vậy gọi là nhân, gọi là tương ưng, gọi là giáo huấn, gọi là pháp môn, gọi là động tác, gọi là đạo hạnh, gọi là không nghi, gọi là đạo sư, gọi là hành thuận nhẫn, gọi là nhẫn địa, gọi là trừ khử sự không nhẫn, gọi là trí địa, gọi là xa lìa vô tri, gọi là kiến lập nơi trí, gọi là phương tiện địa, gọi là Bồ tát du hành, gọi là thần cận thắng trượng phu, gọi là xa lìa kẻ ác, gọi là Như Lai nói về Phật địa, gọi là người trí tùy hỷ, gọi là kẻ ngu vứt bỏ, gọi là Thanh văn khó biết, gọi là không phải địa vị của ngoại đạo, gọi là nhiếp về Như Lai, gọi là điều hiểu biết của đấng Thập lực, gọi là chư thiên cúng dường, gọi là Phạm vương lễ bái, gọi là Ðế Thích đi theo sau, gọi là rồng, thần cúi lạy, gọi là Dạ xoa tùy hỷ, gọi là Khẩn đà la khen ngợi, gọi là Ma hầu la già xưng dương, gọi là sự tu của Bồ tát, gọi là chỗ mong cầu của bậc trí, gọi là được đạo vô thượng, gọi là chẳng phải thí tài vật, gọi là thuốc trừ bệnh phiền não của chúng sanh, gọi là kho trí, gọi là Biện tài vô tận, gọi là xuất sanh các lời dạy, gọi là trừ các bệnh khổ, gọi là biết ba cõi, gọi là thuyền bè đưa người, gọi là che chở qua bốn dòng nước, gọi là phát sanh danh dự, gọi là Như Lai tán thán, gọi là sự lợi ích của Như Lai, gọi là khen ngợi hào quang của đấng thập lực, gọi là xuất sanh đạo đức của Bồ tát, gọi là lòng từ diệt trừ sự bực tức, gọi là lòng từ bi trừ bỏ não hại, gọi là tâm hoan hỷ tịch tịnh, gọi là người xả bỏ buồn rầu, gọi là hơi thở sống động của người đại thừa, gọi là có thể rống tiếng sư tử, gọi là Phật đạo, gọi là tất cả Pháp ấn, gọi là dẫn đạo Nhất thiết trí, gọi là khu vườn du hý của Bồ tát, gọi là sự phá tan ma quân, gọi là đường an toàn, gọi là thành các nghĩa tốt, gọi là ngăn chận kẻ thù địch, gọi là dùng pháp hàng phục oán thù, gọi là sự vô úy chân thật, gọi là sức mạnh không vọng cầu như thật, gọi là cội gốc của mười tám Bất cộng pháp, gọi là trang nghiêm pháp thân, gọi là oai lực của các hành, gọi là trang nghiêm Phật huệ, gọi là bỏ các trói buộc của ái, gọi là trưởng tử của Phật vui mừng, gọi là trí Phật đầy đủ, gọi là không phải địa vị của Bích chi Phật, gọi là tâm thanh tịnh, gọi là thân thanh tịnh, gọi là thành tựu giải thoát, gọi là không có các tạp dục, gọi là không có các tạp nhuế, gọi là không phải địa vị ngu si, gọi là trí A hàm, gọi là hay khởi các kỹ thuật, gọi là trừ các vô minh, gọi là đầy đủ giải thoát, gọi là sự vui mừng của người thiền định, gọi là con mắt cần thiết để người thấy, gọi là du hý thần thông, gọi là hay hiện thần túc, gọi là Văn trì đà la ni, gọi là nhớ nghĩ, thọ trì không quên, gọi là sự gia bị của chư Phật, gọi là phương tiện của đạo sư, gọi là sự không tương ưng, vi tế khó biết, gọi là xả bỏ văn tự, gọi là biết sâu nghĩa trí, gọi là trí của tri kiến, gọi là trí phân biệt, gọi là trí bất khả ngôn thuyết, gọi là trí có thể điều phục sự sai, gọi là trí chất trực, gọi là trí thiểu dục, gọi là nhiếp trì tinh tấn, gọi là hay gìn giữ không quên, gọi là hay tiêu các khổ, gọi là pháp vô sanh, gọi là một lời diễn thuyết có thể biết được sự sanh diệt trong các loài. Ðó gọi là Tam muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả pháp.
Khi đức Phật nơi pháp môn này, trong hội có tám mươi na do tha người, trời được Vô sanh pháp nhẫn, chín mươi hai na do tha trời, người được nhẫn tùy âm thanh, bảy mươi sáu na do tha người, trời được thuận nhẫn, sáu vạn người, trời được xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, một ngàn Tỳ kheo hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, hai trăm năm mươi Tỳ kheo ni hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, năm trăm Ưu bà tắc được quả A na hàm, tám trăm Ưu bà di được quả Tư dà hàm.
Bấy giờ ba ngàn đại thiên thế giới có sáu thứ chấn động, đó là:
1. Ðộng biến động, đẳng biến động.
2. Dũng biến dũng, đẳng biến dũng.
3. Khởi biến khởi, đẳng biến khởi.
4. Hống biến hống, đẳng biến hống.
5. Chấn biến chấn, đẳng biến chấn.
6. Giác biến giác, đẳng biến giác.
Vọt lên ở Ðông thì mất ở Tây. Vọt lên ở Tây thì mất ở Ðông. Vọt lên ở Nam thì mất ở Bắc. Vọt lên ở Bắc thì mất ở Nam. Vọt lên ở giữa thì mất ở một bên. Vọt lên ở một bên thì mất ở giữa. Nhờ pháp lực nên bỗng nhiên khởi lên ánh sáng chưa từng có, có thể chiếu sáng ở những nơi tăm tối xa xôi, cho đến địa ngục A tỳ, không chỗ nào không rực sáng.
Lúc ấy, khoảng giữa núi Thiết vi của thế giới, chúng sanh tăm tối lại được thấy nhau, thảy đều kinh ngạc nói rằng:
–Tại sao ở đây bỗng nhiên có những người này?
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Ta nhớ kiếp xưa sáu vạn Phật
Vốn sống ở tại núi Kỳ xà
Khi ta cầu đạo thời quá khứ
Theo các Thế Tôn nghe định này
Lúc đó sáu ức Phật sau cùng
Vì thế gian nên làm ánh sáng
Tên là Phật Ta la Thọ Vương
Ta theo vị ấy hỏi định này
Lúc ấy ta sanh dòng Sát lợi
Là bậc tối tôn giữa các vua
Có đến năm trăm các người con
Ðầy đủ tất cả các tài nghệ
Với họ, ta là Vô thượng tôn
Tạo dựng Già lam đến cả ức
Toàn dùng đại chiên đàn thắng diệu
Xen lẫn vàng bạc và các báu
Lúc ta làm vua, người kính yêu
Tên là vua Tỳ Sa Mô Ðạt
Rông bày các cúng dường lên Phật
Ngót cả vạn tám trăm ức năm
Lúc đó Lưỡng túc tôn tối thắng
Tên là ngài Ta La Thọ Vương
Trong suốt bảy ức sáu vạn năm
Sống ở thế gian hoằng hóa đạo
Có tám mươi ức các Thanh văn
Ba minh, sáu thông thường tại định
Ðã sạch hết lậu, thân cuối cùng
Thánh chúng như vậy không gièm pha
Ta dâng các thứ thật tối thắng
Cúng dường bậc độ các ác thú
Vì muốn lợi ích các người, trời
Cho nên mới cầu tam muội này
Ta và vợ con đồng xuất gia
Giữ lời Phật dạy không ai bằng
Trong một ngàn bốn vạn ức năm
Ta thường thưa hỏi Tam muội này
Tám vạn na do kệ xưng tán
Kệ tụng khác nhau tám vạn triệu
Ðức Phật đem ra dạy cho ta
Một phẩm duy nhất luận định này
Ðầu, mắt, tay chân cùng vợ con
Các thứ trân bảo và ẩm thực
Tất cả của cải đều bỏ hết
Vì để cầu tam muội như vậy
Nhớ xưa trăm ức các Như Lai
Lại có hằng hà sa số Phật
Các ngài sống tại núi Kỳ xà
Tuyên thuyết định thắng tịch như vậy
Cũng đồng một tên là Thích Ca
Con Phật đồng tên La Hầu La
Thị giả đồng tên là Khánh Hỷ
Thành vua đồng tên Ca Tỳ La
Bậc trí tuệ đệ nhất ở đời
Ðồng tên Mục Liên, Xá Lợi Phất
Thế giới đồng tên là Ta Bà
Các ngài đều sanh đời ác trược
Ta dùng phẩm vật dâng Thế Tôn
Vì muốn thực hành hạnh Bồ đề
Các vật cúng dường đều dâng lên
Vì muốn trì tụng chánh định này
Phát tu thắng hạnh được định này
Ðược hạnh định này vô lượng thứ
An trụ tất cả các đức hạnh
Ðược tam muội này chẳng khó khăn
Không đắm các vị, lìa náo động
Không gần thế tục, không ganh ghét
An trụ Ðại bi, lìa sân hận
Ðược tam muội này chẳng khó khăn.
Xa tục không sợ mất thế lợi
Thanh tịnh tà mạng không phiền não
Với giới trong sáng không sợ hãi
Ðược tam muội này đâu khó khăn
Tinh tấn, dõng mãnh thường không nghỉ
Ưa thích nhàn tịnh hành đầu đà
An trụ vô ngã diệu pháp nhẫn
Ðược tam muội này đâu khó khăn
Khéo điều phục tâm không hý luận
An trụ oai nghi tất cả hạnh
Thích làm bố thí không keo kiết
Ðược tam muội này đâu khó khăn
Các tướng tốt đẹp của Như Lai
Cùng với mười tám pháp bất cộng
Lực, vô úy thảy được không khó
Bởi hay thọ trì định này vậy
Mắt Phật nhìn thấy các chúng sanh
Giả sử một lúc đều thành Phật
Mỗi đức Phật ấy có thọ mạng
Ngàn vạn ức kiếp khó nghĩ được
Mỗi Phật đều có vô lượng đầu
Giống như số cát trong biển cả
Mỗi đầu đều có vô lượng lưỡi
Số lượng cũng như cát đại hải
Cứ mỗi một lưỡi đều xưng dương
Công đức giữ đinh một bài kệ
Vẫn nói phần nhỏ không hết được
Huống chi biên chép và thọ trì
Nếu có thuận định, đức đầu đà
Thiên, A tu la, quỷ hộ trì
Và các vị vua thường theo hầu
Thọ trì tịch định khó thấy này
Vì có vô biên vô ngại biện
Tuyên thuyết vô lượng trăm ngàn kinh
Trong mọi thời gian thường không đoạn
Vì trì kinh này, nghe tạng này
Nếu muốn được thấy Phật Di Ðà
Cùng với thế giới an lạc kia
Sau này đời ác rất đáng sợ
Cần phải nghe trì tam muội này
Ta nay vì ngươi mà phó chúc:
Ta, Nhân trung tôn tự khuyên ngươi
Sau ta Niết bàn, lúc mạt thế
Phải nên nghe, trì tam muội này
Tất cả chư Phật ở mười phương
Trong đời quá khứ và hiện tại
Các ngài đều học tam muội này
Ðược đến vô vi, Phật Bồ đề.
Này đồng tử! Vì nghĩa này nên nếu có Bồ tát ma ha tát, muốn nói với công đức chân thật của Như Lai, khai thị biện thuyết ý nghĩa của danh hiệu thì không thể cùng tận. Tất cả những điều được Phật nói ra, nay ngươi phải nên đọc tụng thọ trì, nói rộng tam muội như vậy cho người khác nghe.
Này đồng tử! Sao gọi là danh hiệu thật đức của Như Lai? Nếu Bồ tát ma ha tát trụ nơi thanh vắng, hoặc dưới gốc cây, nhàn hạ, ngồi im lặng một mình, phải học như vầy: Ðức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, tích tập công đức thắng diệu của Như Lai, tu các thiện căn mà không hoại mất, dùng đại nhẫn lực, được các tướng tốt, và các vẻ đẹp để tự trang nghiêm thân, là sắc khả ái thuộc loại bậc nhất, người xem không chán, kính tin, ái lạc, với các trí huệ không ai có thể hơn được, năng lực bất khả hoại, hóa độ các chúng sanh, là cha của Bồ tát, vua của Hiền thánh, là Ðạo sư hướng tới Niết bàn, trí huệ vô biên, biện tài vô lượng, Phạm âm thanh nhã, âm thinh lời lẽ thông suốt, tướng tốt hy hữu, người có mắt chiêm ngưỡng, tùy theo chỗ quán sát, muốn không xem nữa nhưng vẫn không được. Ðược thân không ai bằng, không bị dục nhiễm, không bị sắc nhiễm, hơn cả vô sắc giới, xa lìa các khổ, vất bỏ các pháp, giải thoát các cõi, chẳng nhập tương ưng, đoạn trừ các trói buộc, sạch hết khát ái, vượt qua bốn dòng sông, đầy đủ trí huệ, an xử Niết bàn, trụ nơi thật tế.
Này đồng tử! Ðó là ta nói rõ công đức chân thật của Như Lai. Nếu nói rộng về danh nghĩa của nó thì không bao giờ cùng tận tất cả những điều chư Phật nói ra.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Với vô lượng số trong ngàn kiếp
Không thể nói hết đức Như Lai
Tập lâu tất cả diệu thiện căn
Ðể cầu được thắng định như vậy
Thân mỹ nữ trang nghiêm vi diệu
Sắc đáng yêu tối thượng lạ lùng
Ta quyết tâm thí, lòng không dối
Ðể cầu được thắng định như vậy
Bỏ cả tài sản và tôi tớ
Ma ni đại bảo và vàng bạc
Dùng tâm thắng thượng mà bố thí
Vì để cầu tam muội như vậy
Dùng ngọc báu ma ni, anh lạc
Mão trời, ấn tay và dây vàng
Xưa từng dâng thí các đạo sư
Ðể cầu được thắng đinh như vậy
Các diệu hương hoa, vô lượng quả
Ðều là hương Kiền Ðà Bà Sư
Ta dùng hoa ấy rải tháp Phật
Tâm thắng diệu thuần chí tăng thượng
Ta dùng vô lượng các pháp thí
Hoan hỷ khai đạo các chúng sanh
Với các danh văn và lợi dưỡng
Trước ta không khởi tâm như vậy
Ta vốn thực tập đức đầu đà
Riêng ở dưới cây, im không nói
Từ bi vô lượng thương chúng sanh
Ðể cầu quả Bồ đề Vô thượng
Với người đồng giới không cạnh tranh
Thường ái ngữ, lời êm ái
Ngôn từ nhỏ nhẹ, người thích nghe
Mọi người nhìn thấy không nhàm chán
Sống ở Tha Xá Ly Gia Xan
Vô lượng ức đời không ganh ghét
Hoan hỷ, thường tự đi khất thực
Các nơi mời thỉnh đều vất bỏ
Nếu ai nghe nhiều, hay thọ trì
Bốn câu kệ của tam muội này
Như vậy tức là cúng dường ta
Nhờ tâm thù thắng thường tôn kính
Xưa ta thực hành các thứ thí
Với giới mãi mãi không vi phạm
Dùng vô lượng thứ cúng dường Phật
Ðể cầu mong tịch định như vậy
Ta ở trong vô lượng thế giới
Ðầy ngọc ma ni đem thí khắp
Nghe tam muội này trì bài kệ
Phước ấy lớn hơn không thể lường
Nếu có tất cả các loại hoa
Và các diệu hương rất hy hữu
Cúng dường tất cả các đức Như Lai
Thích tu thiện căn vô lượng kiếp
Các kỹ nhạc có trên thế gian
Aåm thực ngon bổ và y báu
Tâm tăng thượng trong vô lượng kiếp
Thường đem cúng dường các Thập lực
Nếu ai hưng khởi nguyện Bồ đề
Sẽ được Ðại Pháp vương vô thượng
Nếu ai với kinh Tam muội này
Nghe một bài kệ, phước hơn kia
Trong sông Hằng hà bao nhiêu cát
Bao nhiêu kiếp số nói sự lợi
Phô diễn đức ấy không cùng tận
Nhờ giữ phước định vô lượng vậy.
Này đồng tử! Chính vì nghĩa này nên Bồ tát ma ha tát cần phải chí tâm thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phân biệt hiển thị, giáo hóa rộng rãi cho chúng sanh tu tam muội này.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
Chỗ Phật kia ta nghe như vầy
Ðược lợi ích vô thượng thắng diệu
Cho nên nay ta nói cho ngươi
Thắng tam muội chư Phật đã nói
Chỗ bảy ức ba ngàn vạn Phật
Thời quá khứ ta từng cúng dường
Tất cả các đức Như Lai ấy
Cũng nói Tu đa la như vậy
Nhờ đó mới vào tâm đại bi
Cho nên nói rõ tam muội này
Nếu có người tập học, nghe nhiều
Ðược trí Như Lai sẽ không khó
Nếu có thể vào thời mạt thế
Ðạo sư thế gian đã diệt độ
Có kẻ báng pháp, Tỳ kheo ác
Với người nghe nhiều, không ưa thích
Tuy nói giới pháp để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành giới pháp
Tuy nói thiền định để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành thiền định
Tuy nói trí tuệ để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành trí tuệ
Tuy nói giải thoát để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành giải thoát
Tuy nói tri kiến để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành tri kiến
Như người miệng nói hương chiên đàn
Là hương tối thượng trong các hương
Có người hỏi kẻ nói hương ấy:
“Ông biết thứ hương ông đã nói?”
Ðáp rằng: “Tôi thật không nghe hương
Chỉ nhờ nói hương để mưu sống”.
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ kheo không giữ giới
Chỉ nói giới pháp để mưu sinh
Tự mình không thể hành giới pháp
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ kheo không thiền định
Tuy nói pháp định để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp định
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ kheo không pháp huệ
Tuy nói pháp huệ để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp huệ
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ kheo không giải thoát
Tuy nói giải thoát để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp giải thoát
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ kheo không tri kiến
Tuy nói tri kiến để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp tri kiến
Thí như kẻ nghèo bị người khinh
Sau đó phú quý người cung kính
Người, trời, rồng, quỷ, Cưu bàn trà
Quyết không cúng dường người không định
Nếu được tam muội vi diệu địa
Bậc trí liền được kho trí rộng
Ðược các hàng nhân thiên cung kính
Hay dùng thượng thí cho chúng sanh
Ta nghe được lợi ích như vậy
Hết sức cao tột, Phật nói ra.
Thân thuộc, tài sản đều xả hết
Vì muốn nghe nói tam muội này.
Ðồng tử Nguyệt Quang tâm hoan hỷ
Chấp tay hướng Phật nói lời rằng:
“Sau khi Phật tiên đã diệt độ
Con xin hộ trì thắng pháp Phật
Với thân mạng mình hay thí xả
Cùng các thú vui ở thế gian
Sau này đời ác thật hãi hùng
Con hộ trì thắng diệu định này
Con thấy thế gian khổ vô lượng
Khởi tâm đại bi mà cứu họ
Với họ, lại khởi tâm đại bi
Nói họ nghe thắng tam muội này”.
Trong chúng năm trăm người đều đứng
Cũng xin hộ trì tam muội này
Khi ấy đồng tử là thượng thủ
Cũng hộ trì thắng tam muội này
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:
–Thưa Thế Tôn, gọi tam muội ấy thế nào cho đúng?
Ðức Phật bảo:
–Này đồng tử! Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe. Ta sẽ nói cho. Ðó là:
1. Hay vắng lặng đối vơi tâm.
2. Tâm không khởi lên.
3. Trí không hòa hiệp
4. Bỏ gánh nặng xuống
5. Ðược trí Như Lai.
6. Thành oai lực của Phật
7. Ðối trị sự đắm trước dục.
8. Diệt trừ sân nhuế.
9. Ðoạn trừ ngu si.
10. Trụ tâm tương ưng.
11. Xả tâm không trụ
12. Ưa thích thiện pháp.
13. Tước đoạt hữu vi.
14. An trụ chánh tín.
15. Ðêm vẫn tỉnh thức.
16. Không bỏ thiền định.
17. Tăng trưởng thiện căn.
18. Không thích sự sanh.
19. Không tạo các nghiệp.
20. Không chấp nội nhập.
21. Không chấp ngoại nhập.
22. Không khen thân mình.
23. Không chê người
24. Không ở nhà thế tục.
25. Giới hạnh thuần thục.
26. Không khinh chê ai.
27. Có đại phước đức.
28. Tự tri.
29. Không khinh tháo.
30. An trụ oai nghi.
31. Bỏ lời nói thô ác.
32. Không co tâm sân hận.
33. Cứu hộ mọi người.
34. Che chở thiện tri thức.
35. Hộ trì lời bí mật.
36. Không sanh tâm độc hại đối với các chúng sanh.
37. Không não loạn người trì giới.
38. Luôn nói lời êm dịu.
39. Không nương vào ba cõi.
40. Thuận nhẫn đối với tất cả trí.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Ta đã mở cửa cam lồ này
Ta đã nói tự tánh các pháp
Ta đã chỉ lỗi lầm sanh tử
Ta mở bày lợi ích Niết bàn
Ta đã dạy lìa ác tri thức
Phải thường thân cận thiện tri thức
Lìa các huyên náo ở tịch tịnh
Thường tu tâm từ không gián đoạn
Phải thường hộ trì giới thanh tịnh
Hoan hỷ ưa thích hạnh đầu đà
Nếu hay thường tập sự xả huệ
Ðược tam muội này sẽ không có
Người ấy hay được tịch diệt địa
Quyết không rơi vào hàng Thanh văn
Nhất định sẽ chứng trí huệ Phật
Liền được vô lượng đức chư Phật
Thấy các chúng sanh có trí huệ
Dùng trí huệ Phật nói cho họ
Nếu ai hay cầu trí vô thượng
Ðược tam muội này đâu có khó
Hoặc vì ăn, khởi tâm ganh ghét
Nên biết ăn rồi thành bất tịnh
Dụng công vô lượng mới được thành
Nếu quán thật sau mới đắc định
Không vật nào đem định này tới
Chỉ do tịnh giới mới sanh ra
Thể tánh chư pháp thường tịch diệt
Phàm phu vô trí không thể hiểu
Nếu ai trụ tâm nơi tịch định
Người ấy luôn luôn thường có Phật
Nhân tôn hằng thấy các chúng sanh
Thường tu định tịch diệt như vậy
Nhớ tướng tốt và đức hạnh Phật
Hay khiến các căn không loạn động
Tâm không mê loạn hợp với pháp
Ðược nghe được trí như biển cả
Bậc trí trụ nơi tam muội này
Nhiếp niệm hành nơi chỗ kinh hành
Hay thấy ngàn ức chư Như Lai
Cũng gặp vô lượng hằng sa Phật
Nếu người trong tâm có mê hoặc
Ơû trong Phật pháp bị hạn lượng
Ơû trong vô lượng không hữu lượng
Như Lai các đức bất tư nghì
Tất cả thế gian không ai bằng
Huống lại có người hơn Ngài được
Các trí các đức đều tương ưng
Với Ngài không nghi sẽ thành Phật
Ðược thân Như Lai sắc vàng tía
Tất cả đoan trang để gần đời
Nhờ duyên như vậy tâm an trụ
Mới gọi là Bồ tát đắc định
Nhờ nương tướng Phật là hữu tác
Hay trừ tất cả tưởng hữu tướng
Sau đó an trụ nơi vô tướng
Mới hay đạt được các pháp không
Hay được an trụ nơi pháp thân
Biết tất cả hữu nhưng vô hữu
Ðã tu tập tướng vô hữu rồi
Sau đó quán Phật không sắc thân
Nay ta vì ngươi nên khéo nói
Người người đến được chỗ như vậy
Mới gọi hay biết các sự duyên
Vô lượng suy nghĩ thường không đoạn
Nếu ai hay sanh tâm như vậy
Nhớ tướng tốt và trí huệ Phật
Người kia hay tu niệm như vậy
Một lòng hướng về không thối chuyển
Hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc kinh hành
Không nghi hoặc với trí chư Phật
Ðược không nghi rồi phát nguyện rằng:
“Khiến con được Phật Tam giới tôn
Chắc sẽ thấy được các Như Lai
Vào trong Phật pháp hay tuyển chọn
Nơi tam muội này mà khởi lên
Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật
Thân, miệng và ý đều thanh tịnh
Tán thán chư Phật thường không dứt”.
Thường tu như vậy nhớ tướng Phật
Ngày đêm hằng thấy các Như Lai
Gặp lúc sắp chết, bệnh ngặt nghèo
Bệnh đau bức bách không chịu nổi
Niệm tam muội Phật thường không xả
Không để khổ thống đoạt nhất tâm
Người ấy vì tự biết pháp này
Nên biết tất cả các pháp không
Nhờ trụ các giáo môn như vậy
Với Bồ tát hạnh không chán ghét
Ðược nghe lợi ích như vậy rồi
Cầu trí vô đẳng của Như Lai
Sau đó không sanh tâm hối tiếc
Bồ đề tối thượng không đạt được
Nay ta vì ngươi nói các thứ
Ngươi đói pháp này nếu không thành
Như người tuy giữ thuốc thật hay
Tự thân mình bệnh không thể trị
Cho nên cần phải biết lựa chọn
Gọi là cầu nơi thắng tam muội
Giới, văn, bố thí thường tu tập
Ðược tam muội này sẽ không khó.
QUYỂN 2/10
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đồng tử Nguyệt Quang:
–Vào thời quá khứ lâu xa, hơn cả A tăng kỳ kiếp, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Khi ấy có một đức Phật hiệu là Thanh Ðức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời.
Này đồng tử! Bấy giờ đức Như Lai Thanh Ðức, Ứng chánh biến, hội chúng đầu tiên của ngài tập hợp tám ức Thanh văn, đều là bậc A la hán, đã hết các lậu đã được tự lợi, sạch hết hữu kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt được tất cả tâm tự tại.
Hội chúng thứ hai gồm có bảy ức chúng, hội chúng thứ ba gồm có sáu vạn chúng. Tất cả những vị đó đều là Ðại A la hán, các lậu đã tận, đạt được tự lợi, sạch hết các kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, hay đạt đến tất cả tâm tự tại.
Này đồng tử! Khi ấy đức Phật thọ bốn vạn năm, bấy giờ cõi Diêm phù đề được an ổn, giàu có sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.
Này đồng tử! Bấy giờ ở Diêm phù đề có hai vị đại vương, một vị tên là Kiên Cố Lực, vị thứ hai tên là Ðại Lực. Hai vị đại vương này mỗi người thống lãnh một nửa cõi Diêm phù đề. Lãnh thổ của hai vua an ổn, giàu có sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.
Khi ấy đức Như Lai Thanh Ðức xuất hiện ở đời tại nước của vua Ðại Lực. Này đồng tử, bấy giờ vua Ðại Lực thỉnh đức Như Lai Thanh Ðức và Tỳ kheo tăng ngót cả ngàn năm, dùng tất cả y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc thang, không sai trái, tùy thuộc thanh tịnh để cúng dường.
Này đồng tử! Ðức Như Lai Thanh Ðức và tăng chúng Thanh văn được nhiều lợi dưỡng, cung kính tán thán. Lúc đó có các Bà la môn, trưởng giả, tịnh tín đối với đức Như Lai Thanh Ðức và Tỳ kheo tăng đã phát ý dõng mãnh, học với vua Ðại Lực cách cúng dường. Ðó là lấy tiền của thế gian làm vật cúng dường thù thắng. Người ấy không biết cách thực hành cúng dường. Vậy thực hành cúng dường bằng cách nào?
–Ðó là thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đi đến chỗ đức Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa.
Này đồng tử! Lúc đó đức Như Lai Thanh Ðức nghĩ như vầy: “Các chúng sanh này ý chí hạ liệt, không thể thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đến chỗ Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa, tu các phạm hạnh tịch tịnh, viễn ly, thọ giới cụ túc, được phần Tỳ kheo và dùng thọ hành, thiện căn rốt ráo. Tịch diệt như vậy, nhạc cụ, diệu lạc vô thượng thảy đều xa lìa, chỉ dùng của cải thế gian để cúng dường ta. Các chúng sanh này chỉ mong sự vui nhỏ mà cho là vui cùng tột. Các chúng sanh này chỉ trọng pháp hiện tại và pháp đời sau mà không thể yêu quý căn lành cứu cánh.
Sao gọi là coi trọng pháp hiện tại? Ðó là ưa thích ngũ dục.
Sao gọi là quý trọng căn lành đời sau? Ðó là ưa thích sanh lên trời.
Sao gọi là căn lành cứu cánh? Ðó là sự thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết bàn cứu cánh.
Nay ta muốn nói pháp như vậy khiến cho chúng này sanh hạnh bố thí, không vì sự cúng dường tối thắng cứu cánh, chỉ vì hạnh vô thượng mà cúng dường ta”.
Này đồng tử! Lúc ấy đức Như Lai Thanh Ðức muốn giác ngộ cho vua Ðại Lực và các trưởng giả Bà la môn đó ... nên bài kệ:
Người muốn thực hành thí tài thực
Còn tâm bỉ thử không kính nhau
Việc làm như vậy không đáng khen
Chư Phật, bậc trí đã xa lìa
Nếu nói bậc trí huệ vô ngã
Thắng nhơn như vậy nên phụng sự
Nếu với Thánh đế tin bất động
Phụng kính như vậy Phật mới khen
Nếu đem tài thực mà dâng thí
Chỉ được ít lợi nơi hiện tại
Nếu hay viễn ly thí như vậy
Người ấy thành tựu hạnh xuất gia
Nếu ai hay khởi tâm không của
Lại hay hiển thị pháp không của
Cũng hay tịnh tín người không của
Người đó mau thành đạo vô thượng
Không có ở trong năm dục lạc
Với vợ và con sanh ái trước
Kẻ ngu mãi sống ở trong nhà
Người đó đâu hay được lậu tận
Nhàm chán ngũ dục như hầm lửa
Hay lìa ái nhiễm với vợ con
Sợ hãi cư gia cầu ra khỏi
Chứng đặng Bồ đề mới không khó
Không có chư Như Lai quá khứ
Cùng với hiện tại và vị lai
Thường ở cư gia sống trong dục
Ðâu hay đạt được thắng diệu đạo
Vất bỏ ngôi vua như nước miếng
Sống nơi viễn ly chỗ không nhàn
Ðoạn trừ phiền não hàng phục ma
Ngộ rõ đạo vô vi ly cấu
Nếu có hằng sa bậc Thế hùng
Ngàn vạn ức năm mà cúng dường
Người hay sợ hoạn ở tại gia
Công đức như vậy mới tối thượng
Chẳng phải ẩm thực và y phục
Các diệu hoa hương và hương xoa
Những thứ như vậy cúng dường Phật
Nếu hay xuất gia phụng hành Pháp
Nếu ai thích cầu đạo Bồ đề
Hay lợi chúng sanh chán thế gian
Hướng đến không nhàn đi bảy bước
Phước báu như vậy mới tối thượng.
Này đồng tử, khi vua Ðại Lực nghe đức Như Lai Thanh Ðức, bậc Ứng chánh biến tri nói về nghĩa lợi của sự xuất gia tu hành như vậy xong, lại suy nghĩ rằng: “Như ta đã hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, đức Như Lai chẳng phải Như Lai nói Ðàn ba la mật để được thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết bàn cứu cánh.”
Vua Ðại Lực lại nghĩ như vầy: “Không phải sống tại gia mà có thể đắc vô thượng, tu được vô thượng, tu hành nghĩa lợi. Nhưng ta hiện nay xa lìa hạnh này. Nay ta nên phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa xuất gia hành đạo!”.
Này đồng tử! Khi ấy vua Ðại Lực cùng với quyến thuộc là tám vạn người trước sau vây quanh, đến chỗ đức Phật Thanh Ðức, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu bên phải ba vòng, ngồi xuống một bên.
Này đồng tử! Bấy giờ đức Như Lai Thanh Ðức biết vua Ðại Lực cùng với quyến thuộc trong tâm có sự ưa thích, ngài liền tuyên nói Tam muội vô hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp ngài phân biệt hiển thị.
Này đồng tử! Khi vua Ðại Lực nghe Tam muội này hoan hỷ nhảy nhót trong lòng hết sức yêu thích, liền ở chỗ đức Phật Thanh Ðức xả bỏ ngôi vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y. Khi vua đã xuất gia, đối với Tam muội này có thể thính thọ rộng rãi, đọc tụng, nhớ nghĩ, gìn giữ, phân biệt ý nghĩa, tu hành tương ưng với Tam muội ấy. Nhờ thiện căn này, trong hai ức kiếp không đọa ác đạo, tuần tự lại gặp hai ức các đức Phật, ở trong Phật pháp thường được xuất gia, ở nơi mỗi mỗi đức Phật đối với Tam muội này, vua thính thọ, đọc tụng, phân biệt nghĩa lý, tu hành tương ưng. Nhờ thiện căn này nên tuần tự ngót một trăm ức kiếp được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Trí Dũng, bậc Ứng chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh sau đó mới nhập Bát Niết bàn.
Này đồng tử! Ngươi nên quán Tam muội này, có thần lực ấy hay khiến cho Bồ tát chiêu cảm được trí Phật.
Này đồng tử! Vua Ðại Lực ấy đã dẫn tám vạn quyến thuộc đến nghe Tam muội này, làm cho hoan hỷ, nhảy nhót, rất ưa thích. Họ cũng theo vua chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y. Các người xuất gia ấy nghe Tam muội này đọc tụng, thọ trì, phân biệt, giải thuyết, tu hành tương ưng. Nhờ thiện căn này nên đối với hai ức kiếp không đọa ác đạo. Trong mỗi mỗi kiếp họ gặp ngàn vạn đức Phật, ở chỗ các đức Phật ấy thường được xuất gia. Ðã xuất gia rồi nghe Tam muội này đọc tụng, thọ trì, ứng dụng trong sự tu hành. Nhờ thiện căn này nên sau đó ngót một trăm ngàn kiếp mỗi vị ở mỗi thế giới đều thành Phật đạo, đồng một danh hiệu là Như Lai Kiên Cố Dõng Kiện, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng chúng sanh rồi sau đó các ngài mới nhập Vô dư Niết bàn.
Này đồng tử! Tam muội này có đại oai lực như vậy hay khiến cho các Bồ tát đạt đến A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói bài kệ:
Ta nhớ đời quá khứ lâu xa
Bất tư nghì kiếp có đức Phật
Hay làm lợi lạc cho chúng sanh
Hiệu là Thanh Ðức Ðại Tiên Tôn
Hội đầu tập chúng ngót tám ức
Ðều là các đệ tử Thanh văn
Hội hai tập chúng số bảy ức
Hội ba sáu ức A la hán
Ðã sạch hết lậu không phiền não
Các sức thần thông đã rốt ráo
Ðức Phật sống đến bốn vạn tuổi
Thế giới quốc độ rất nghiêm tịnh
Cõi Diêm phù đề có hai vua
Tên là Ðại Lực, Kiên Cố Lực
Lãnh thổ của hai vị vua này
Mỗi vua thống lãnh nửa Diêm phù
Phật sanh trong nước vua Ðại Lực
Các Thắng nhân thiên dâng cúng dường
Nhà vua tịnh tín nơi đức Phật
Cung kính cúng dường ngót ngàn năm
Vô lượng dân chúng học theo vua
Cúng dường đức Như Lai các thứ
Chỉ vì thế tài phi pháp cúng
Phật và Thanh văn đều đầy đủ
Bấy giờ Thế Tôn mới nghĩ rằng:
“Ta nói pháp này để bỏ dục
Sẽ khiến nhà vua sanh nhàm chán
Ở trong pháp ta mà xuất gia”.
Khi ấy Nhân Tôn nói kệ rằng:
“Vất bỏ pháp ác là Phật giáo
Tại gia lỗi nhiều đủ các khổ
Tu hành như pháp là cúng Phật”.
Khi vua nghe nói kệ như vậy
Ðến chỗ không nhàn nghĩ như vầy:
“Nay ta không thể ở gia đình
Mà làm pháp cúng dường tối thắng”.
Liền bỏ ngôi vua như nhổ dãi
Cùng với tám vạn các quyến thuộc
Ðồng lúc đi đến chỗ đức Phật
Ðầu mặt đảnh lễ đứng trước ngài
Phật biết tâm họ đều ưa thích
Nên nói định tịch diệt khó thấy
Họ nghe ái kính và vui mừng
Mọi người hoan hỷ liền xuất gia
Khi xuất gia rồi với định này
Ðọc tụng, thọ trì rộng phân biệt
Thứ lớp trong số hai ức kiếp
Chưa từng đọa lạc ba ác đạo
Vị ấy nhờ các thiện nghiệp này
Ðược thấy trăm ức các Như Lai
Ở trong Phật pháp thường xuất gia
Tuyên thuyết thắng Tam muội như vậy
Về sau họ sẽ được thành Phật
Ðồng hiệu: Kiên Cố Ðại Tinh Tấn
Lợi ích vô lượng ức chúng sanh
Sau nhập Niết bàn như lửa tắt
Vào thuở xa xưa vua Ðại Lực
Thành Phật từ lâu hiệu Trí Dũng
Lợi ích vô lượng trăm ức chúng
Chứng Bồ đề rồi nhập Niết bàn
Ðã nghe lợi ích lớn như vậy
Mạt thế trì kinh Phật khen ngợi
Nếu hay phụng trì Phật pháp tạng
Họ sẽ mau thành nhân trung thượng.
Này đồng tử! Ðó là Bồ tát ma ha tát vì yêu thích định này nên phải tu tập định này trước tiên. Này đồng tử, vì sao Bồ tát đối với Tam muội này phải tu trước tiên?
Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát dùng tâm đại bi làm đầu. Nếu Phật ở tại thế hay Phật đã diệt độ, thường xuyên cúng dường, đó là: vòng hoa, hương bột, hương xoa, dù lọng báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh. Nhờ thiện căn này đều đem hồi hướng Tam muội như vậy. Lại không mong cầu các việc khác, mà để cúng dường Phật, không cầu sắc đẹp, không cầu tiền của, không vì sanh lên trời, không cầu quyến thuộc chỉ nhớ pháp Tam muội này. Bồ tát ấy vẫn ở trong pháp, không thấy có Phật, huống lại ngoài pháp mà thấy có Phật!
Cho nên, này đồng tử, đó là cúng dường Phật chân chánh mà cũng không thấy có Phật để thành, không chấp ngã tưởng, không cầu quả báo. Bồ tát ấy Tam luân thanh tịnh, dùng vòng hoa, hương bột, hương xoa, phan, lọng, dù báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh ... cúng dường đức Như Lai để hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Nhờ thiện căn này nên được công đức không thể nghĩ bàn, quả báo không thể nghĩ bàn. Ðược Tam muội này nên mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
Nếu ai dâng hương Vô biên trí
Hay được vô lượng quả báo hương
Trong ngàn vạn kiếp lìa đường ác
Hoàn toàn không có các xú uế
Trong ngàn vạn kiếp hành thắng hạnh
Cúng dường trăm vạn ức Như Lai
Thành Phật đạt được thắng giới hương
Nếu lại hiểu rõ không chúng sanh
Thí hương, nhận hương không cả hai
Nếu hay khởi tâm thí như vậy
Sẽ được nhẫn thắng thuận nhu nhuyến
Nếu ai tiến lên tu nhẫn này
Bị người cắt thân giống như trước
Trong ngàn vạn ức hằng sa kiếp
Mà tâm kiên cố không thối chuyển
Vì sao mà được tên là Nhẫn?
Vì sao lại gọi là tùy thuận?
Vì sao được gọi Bất thối chuyển?
Vì sao lại gọi là Bồ tát?
Tự tánh hân hoan không ngã chấp
Vì không ngã tưởng không phiền não
Hay biết các pháp đều tận diệt
Do nhân duyên này gọi là Nhẫn
Ðiều chư Phật học, tùy thuận học
Người trí như pháp thường tu hành
Biết pháp chư Phật không nghi hoặc
Cho nên được gọi là tùy thuận
Nếu tu hành lúc đời có ma
Hiện làm thân Phật nói lời rằng:
–Phật đạo khó được làm Thanh văn
Không hẳn tín thọ gọi Bất thối
Giác ngộ các chúng sanh ác kiến
Họ không thể chứng đạo cam lồ
Khuyên bỏ ác đạo, trụ thiện đạo
Cho nên được gọi là Bồ tát.
Người nhẫn trụ nơi đạo tùy thuận
Nhờ không ngã pháp khiến khai ngộ
Cho đến trong mộng không khởi niệm
Há có tưởng chúng sanh, thọ mạng.
Nếu ma vô lượng như hằng sa
Hóa làm thân Phật đến chỗ ta
Ðều nói trong thân có “Hằng ngã”
Liền nói “Vô ngã” người phi Phật
Nhờ trí liễu đạt các pháp Không
Biết rồi không sống cùng phiền não
Do hý luận nên nói là Có
Thấy rồi tịch diệt sống thế gian
Thí như người đời đã sanh con
Tùy ý của mình đặt tên gọi
Tìm tên khắp nơi cũng không có
Nên biết tên ấy không chỗ đến
Vì đặt tên Bồ tát như vậy
Bồ tát khắp nơi không thể tìm
Cho đến thật tế cầu không được
Người biết tên Bồ tát như vậy
Giả như trong biển đốt lửa cháy
Bồ tát không hề khởi thân kiến
Bồ tát được trụ sơ phát tâm
Ðoạn sạch ác kiến, hết phiền não
Không thấy có các pháp sanh diệt
Gọi là “Chúng sanh” và “Thọ mạng”
Thể các pháp không giống như huyễn
Việc này ngoại đạo không thể biết.
Nếu sanh tham trước việc ăn uống
Khởi tâm yêu tiếc nơi y bát
Cùng với trạo cử và khinh tháo
Thì không thể biết Phật Bồ đề
Ham thích ngủ nghỉ và lười biếng
Gian ngụy, hung bạo không thu nhiếp
Không lòng tịnh tín nơi chư Phật
Thì không thể biết Phật Bồ đề.
Hủy phá giới cấm không hổ thẹn
Ở trong Phật pháp không uy tín
Không kính các phạm hạnh đồng tu
Thì không thể biết Phật Bồ đề.
Không hủy tịnh giới có hổ thẹn
Ở trong Phật pháp rất ưa thích
Hay cung kính người đồng phạm hạnh
Thì mới biết được thắng Bồ đề.
Niệm xứ chính là cảnh giới Phật
Hoan hỷ chính là giường, ngọa cụ
Lấy thiền làm cơm, định làm canh
Như vậy mới biết Phật Bồ đề.
Vô ngã, nhẫn là chỗ kinh hành
Ở trong rừng trống hành chánh niệm
Thất giác là hương hoa khả lạc
Ngửi xong liền thành đạo Vô thượng.
Thể đạo Bồ tát đã tu hành
Không phải việc làm của người khác
Gọi là Thanh văn và Duyên giác
Chỉ có người trí không tham đắm
Ví thọ mạng ta rất lâu dài
Như cát sông Hằng vô lượng kiếp
Ðức của Phật không thể nói hết,
Vì trí huệ Như Lai vô biên
Nếu nghe lợi ích lớn như vậy
Không sợ những điều Thế Tôn nói
Mau tự dạy người giữ định này
Ðược Bồ đề Vô thượng không khó.
Này đồng tử! Cho nên Bồ tát ma ha tát phải biết nhập vào ba pháp nhẫn một cách khéo léo. Ðó là biết nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai và nhẫn thứ ba. Trong nhẫn này phải biết một cách khéo léo. Lại đối với trí ấy cũng phải biết một cách khéo léo. Vì sao vậy? Nếu Bồ tát ma ha tát đối với trong Nhẫn trí mà biết một cách khéo léo thì Bồ tát ma ha tát ấy mau được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.
Cho nên, này đồng tử, Bồ tát ma ha tát nếu cầu mau chứng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề thì cần phải thọ trì ba môn pháp nhẫn này, thọ trì rồi phân biệt, nói rộng cho người khác nghe, làm lợi ích an lạc chư thiên và loài người.
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì đồng tử Nguyệt Quang liền nói câu kệ tụng pháp môn nhập vào ba nhẫn này:
Ðối với chúng sanh không tranh cãi
Miệng không nói ta lời vô ích
Thường hay an trụ pháp lợi sanh
Gọi đó tên là Nhẫn đầu tiên.
Biết tất cả pháp giống như huyễn
Liền đối với tướng không nắm giữ
Hay ở trong trí không tăng giảm
Cho nên gọi là Thắng nhẫn đầu
Ðã tu học các Tu đa la
Trí và khéo nói hằng tương ưng
Không nghi trí vô lượng của Phật
Gọi đó tên là Thắng nhẫn đầu.
Nếu nghe tất cả, khéo thuyết pháp
Giống như Phật thuyết không có nghi
Hay tin tất cả, các pháp Phật
Gọi đó tên là Thắng nhẫn đầu.
Với kinh liễu nghĩa thường tuyên đọc
Như điều Phật nói mà diễn thuyết
Nếu nói: ngã, nhân và chúng sanh
Liền biết phương tiện mà tiếp dẫn
Các dị kiến của các ngoại đạo
Với họ, tâm Bồ tát không đọng
Lại đối vơi họ thêm xót thương
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.
Các đà la ni đến trước mặt
Với môn tổng trì không nghi hoặc
Những lời nói ra đều chân thật
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.
Giả sử tướng bốn đại chuyển biến
Ðó là đất, nước, gió và lửa
Với Bồ đề Phật vẫn không lùi
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.
Có các nghề hay ở thế gian
Bồ tát thảy đều khéo tu học
Không thấy có người giỏi hơn mình
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Sức Xa ma tha được điều phục
Núi Tỳ Bà xá Na bất động
Tất cả chúng sanh không thể khinh
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Những lời nói ra thường tại định
Ði, dưng, nằm, ngồi hằng Tam muội
Chánh định kiên cố đến bờ kia
Gọi là tướng Thắng định thứ ba.
Trụ nơi chánh định được thần thông
Ðến nhiều cõi Phật để thuyết pháp
Bậc trí, sức thần túc không giảm
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Nếu khi tu tịch định như vậy
Ðối với tất cả quần sanh khác
Không thể biết ngằn mé tâm họ
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Giả sử các chúng sanh thế giới
Cùng lúc thành Phật diễn nói pháp
Người đó đều hay lãnh thọ hết
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ
Hai phương trên dưới cũng như vậy
Ở trong các phương đều thấy Phật
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Ðều hay biến hiện vô lượng thân
Tất cả đều có sắc vàng ròng
Ðến vô lượng cõi để thuyết pháp
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Các cõi Diêm phù thế giới Phật
Tất cả đều thấy hình Bồ tát
Chư thiên và người đều hay biết
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Trong các Phật pháp, chỗ Phật làm
Có các oai nghi của đạo sư
Bậc trí đều hay khéo tu tập
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Có các chúng sanh trong thế giới
Ðều đến khen ngợi Bồ tát này
Bồ tát với họ tâm hân hoan
Là với trí Phật chưa tu học.
Có các chúng sanh trong thế giới
Mắng nhiếc, hủy báng Bồ tát này
Với họ, nếu khởi tâm sân hân
Nên biết trí Phật chưa tu học
Nếu được lợi dưỡng tâm không mừng
Khi bị chống trái không buồn khổ
Tâm mình an trụ giống như núi
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Một là: Nhẫn tùy thuận âm thanh
Hai là: Nhẫn tư duy tùy thuận
Ba là: Nhẫn tu tập vô sanh
Học ba Nhẫn này được Bồ đề
Nếu đối với Tam Thắng nhẫn này
Bồ tát nào có thể đắc được
Thiện Thệ khi thấy Bồ tát ấy
Liền thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Nếu ai một mình nghe thọ ký
Số ức chúng sanh không nghĩ bàn
Ðều phát tâm Vô thượng Bồ đề
Ta cần phải làm Nhân trung tôn
Nghe nói tiếng thọ ký như vậy
Tức thời đại địa sáu chấn động
Hào quang chiếu khắp mười phương cõi
Mưa hoa thắng diệu nhiều vô lượng
Nếu đối ba thắng nhẫn như vậy
Chỉ có Bồ tát mới đạt được
Lại không còn thấy có chúng sanh
Nơi đó khởi diệt cũng như vậy
Nếu với ba thắng nhẫn như vậy
Chỉ có Bồ tát mới được vậy
Ðã già, hiện già đều không thấy
An trú trong pháp được như vậy
Bồ tát biết rõ các thứ pháp
Thể tánh không tịch giống như huyễn
“Không” ấy cũng lại chẳng sanh diệt
Vì thể các pháp vốn không tịch
Nếu có chúng sanh đến cung kính
Lễ bái, tôn trọng và cúng dường
Với họ Bồ tát không yêu riêng
Vì thâm đạt thể tánh thế gian
Nếu có chúng sanh lại đánh mắng
Với họ, Bồ tát không khinh ghét
Lại khởi lòng từ với người ấy
Vì muốn khiến mình được giải thoát
Nếu dùng dao gậy và ngói đá
Với họ trong lòng không tức giận
An trụ trong pháp nhẫn vô ngã
Bồ tát biết rõ các thứ pháp
Thể tánh không tịch, giống như huyễn
Nếu hay an trụ trong pháp này
Vì các nhân thiên đã cúng dường
Có người tay cầm dao bén nhọn
Cắt đứt từng phần cơ thể ta
Tâm hay nhẫn chịu không tức giận
Thêm lớn tình thương, trước không hoại
Khi dùng dao cắt từng chi tiết
Bồ tát liền sanh ý nghĩ này:
“Nếu ngươi chua chứng đạo Bồ đề
Ta nguyện chớ chứng được Niết bàn”.
Nhẫn lực như vậy rất vô thượng
Vì nhờ an trụ nhẫn vô ngã
Là đai danh xưng các Bồ tát
Tu tập vô lượng na do kiếp
Lại hơn số ấy như hằng sa
Vẫn chưa thể chứng được Bồ đề
Ngay trong lúc đó tu hạnh Phật
Huống lại giác trí đâu nói được
Dù nói ức kiếp bất tư nghì
Ðức hiệu của ngài vô cùng tận
Khéo an trụ nơi nhẫn vô ngã
Là đại danh xưng các Bồ tát
Nếu muốn hay biết được Bồ đề
Cần phải trụ nơi diệu trí tụ
Nếu tu pháp nhẫn chư Phật dạy
Ðược Thắng Bồ đề sẽ không khó.
Bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang:
–Vào thời quá khứ rộng lớn lâu xa vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, vượt hơn A tăng kỳ kiếp, khi ấy có đức Phật tên là Vô Sở Hữu Khởi Như Lai, bậc Ứng chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời. Sao gọi là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, bậc Ứng chánh biến tri?
Này đồng tử! Khi đức Phật này sanh ra, ngài bay trong hư không cao đến bảy cây đa la, bước bảy bước mà nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu! Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”. Tiếng ngài vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Khi ấy thần đất dần dần báo cho nhau đến trời Phạm thiên rằng: “Trong thế giới này có Phật ra đời, hiệu là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, bậc Ứng chánh biến tri. Lúc ngài mới sanh, ở trên hư không, bước đi bảy bước nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.
Này đồng tử! Do nhân duyên đó nên hiệu của Phật là Vô Sở Hữu Khởi. Khi đức Phật ấy thành chánh giác, tất cả cây cối, rừng rậm, dược thảo đều phát ra tiếng nói: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.
Này đồng tử, thế giới lúc ấy đều phát ra các âm thanh cũng nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”.
Này đồng tử, bấy giờ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi khi đang thuyết pháp có một vị vương tử tên là Tư Duy Ðại Bi, hình mạo đoan chánh, ai cũng yêu thích, tâm hành điều hòa, nhu nhuyến.
Này đồng tử, khi ấy Vương tử đi đến chỗ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu quanh ba vòng, lui về ngồi một chỗ. Bấy giờ đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi biết Vương tử Tư Duy Ðại Bi thâm tâm ưa thích. Ngài liền nói:
–Tam muội Vô hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp này.
Vị Vương tử nghe cong, được tâm tịnh tín, xuất gia hành đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa. Khi đã xuất gia, vương tử đói với Tam muội này đọc tụng, thọ trì, vì người khác phân biệt hiển thị rộng rãi. Nhờ thiện căn này nên vương tử ấy trong hai mươi kiếp không đọa ác đạo, cứ trong mỗi kiếp gặp được hai ức đức Phật, hơn hai mươi kiếp thì được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Tư Thiện Nghĩa, bậc Ứng Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời.
Này đồng tử, ngươi nên quán thấy Tam muội này có oai lực ấy, hay khiến cho Bồ tát chiêu cảm được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.
Này đồng tử, Bồ tát ma ha tát nên an trụ trong pháp Nhẫn sâu ấy. Vì sao Bồ tát ma ha tát hay an trụ trong pháp Nhẫn sâu?
–Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát nên quán như vầy: tất cả pháp giống như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Nên biết như vậy.
Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát nếu quán như thật về tất cả pháp như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Ðó gọi là Bồ tát ma ha tát an trụ Nhẫn sâu.
Nếu thành tựu được Nhẫn sâu, Bồ tát đối với pháp nhiễm thì không nhiễm, pháp sân thì không sân, pháp si thì không si. Vì sao vậy? Vì Bồ tát này không thấy nơi pháp, cũng vô sở đắc, không thấy người ô nhiễm, không thấy nghiệp ô nhiễm, không thấy người sân, không thấy việc sân, không thấy nghiệp sân, không thấy người si, không thấy việc si, không thấy nghiệp si.
Bồ tát ma ha tát đối với pháp như vậy đều vô sở hữu , cũng vô sở đắc. Ðó là hoặc nhiễm, hoặc sân, hoặc si. Bồ tát ấy nhờ vô sở kiến, liền không bị nhiễm, không sân, không si. Bồ tát ấy như thật không nhiễm, không sân, không si, nên tâm không điên đảo, được gọi là định, gọi là không hý luận, gọi là đáo bỉ ngạn, gọi là đất bằng, gọi là đến chỗ vô úy, gọi là thanh lương, gọi là trì giới, gọi là bậc trí, gọi là bậc huệ, gọi là phước đức, gọi là thần túc, gọi là nhớ nghĩ, gọi là thọ trì, gọi là trí huệ, gọi là người ra đi, gọi là người xấu hổ, gọi là người tín nghĩa, gọi là người công đức đầu đà, gọi là người không đắm trước nữ sắc, gọi là người không nhiễm trước, gọi là bậc ứng cúng, gọi là người lậu tận, gọi là người tự tại không phiền não, gọi là người tâm giải thoát, gọi là người huệ giải thoát, gọi là người điều phục, gọi là Ðại long, gọi là việc làm đã xong, gọi là không còn gì để làm nữa, gọi là xả bỏ gánh nặng, gọi là đã được tự lợi, gọi là sạch hết hữu kết, gọi là nương chánh giáo, tâm khéo giải thoát, gọi là đến tất cả tâm tự tại, gọi là Sa môn, gọi là Bà la môn, gọi là người tắm rửa, gọi là người đã qua sông, gọi là bậc minh liễu, gọi là người nghe, gọi là Phật tử, gọi là Thích tử, gọi là người vất bỏ gai góc, gọi là người vượt qua hầm hố, gọi là người nhổ tên độc, gọi là người không nóng, gọi là người không còn bụi bặm, gọi là Tỳ kheo không ngăn che trói buộc, gọi là trượng phu, gọi là thiện trượng phu, gọi là thắng trượng phu, gọi là đại trượng phu, gọi là sư tử trượng phu, gọi là Ðại long trượng phu, gọi là Ngưu vương trượng phu, gọi là khéo điều phục trượng phu, gọi là Dõng kiện trượng phu, gọi là trượng phu gánh vác, gọi là tinh tấn trượng phu, gọi là hung dữ trượng phu, gọi là Như hoa trượng phu, gọi là Liên hoa trượng phu, gọi là Phân đà lợi trượng phu, gọi là Ðiều ngự trượng phu, gọi là Mặt trăng trượng phu, gọi là Mặt trời trượng phu, gọi là tác nghiệp trượng phu, gọi là Lưỡng túc trung thượng, gọi là tận cùng bờ trí, gọi là hơn bậc đa văn tối thắng, gọi là đã tu phạm hạnh, gọi là việc làm rốt ráo, gọi là không nhiễm tất cả điều ác.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:
Như trước, sau cũng vậy |
Dụ các pháp cũng thế |
Khi tai hoại, kiếp tận |
Thế giới trở thành không |
Xem khởi tạo thế gian |
Ðều trụ ở trên nước |
Như dưới trên cũng vậy |
Các pháp cũng như thế |
Như bầu trời không mây |
Bỗng nhiên nổi âm u |
Biết nó từ đâu sanh |
Các pháp cũng như thế |
Như Lai Niết bàn rồi |
Ý tưởng thấy hình Phật |
Như trước sau cũng vậy |
Các pháp cũng như thế |
Giống như đống bọt nước |
Bập bềnh trên dòng thác |
Thấy nó không chắc thật |
Các pháp cũng như thế |
Như trời mưa trên nước |
Bọt nước nổi nơi nơi |
Sanh đâu liền diệt đó |
Các pháp cũng như thế |
Thí như trong ngày xuân |
Ánh sáng chiếu rực rỡ |
Bóng nắng giống như nước |
Các pháp cũng như vậy. |
Như cây chuối ẩm ướt |
Nếu chặt tìm gỗ chắc |
Trong ngoài đều không chắc |
Các pháp cũng như vậy. |
Như huyễn, tạo nhiều thân |
Là nam, nữ, voi, ngựa |
Tướng ấy chẳng chơn thật |
Các pháp cũng như thế. |
Thí như có đồng nữ |
Ðêm nằm mộng sanh con |
Sống mừng, chết ưu khổ |
Các pháp cũng như vậy. |
Như người mộng hành dâm |
Tỉnh giấc chẳng thấy gì |
Ngu si trọn chẳng được |
Các pháp cũng như vậy. |
Như trăng sáng bầu trời |
Bóng hiện nơi ao sạch |
Mặt trăng đâu vào nước |
Các pháp cũng như vậy. |
Như người tự ưa thích |
Lấy kiếng soi mặt mình |
Bóng gương bất khả đắc |
Các pháp cũng như vậy. |
Thấy ngựa hoang như nước |
Người ngu muốn đến uống |
Không thật, sao đỡ khát! |
Các pháp cũng như vậy. |
Như người ở hang núi |
Tiếng ca khóc, nói cười |
Tiếng vang bất khả đắc |
Các pháp cũng như vậy. |
Như bảng cấm các nước |
Thiện ác theo đó làm |
Ngôn giáo chẳng đến đó |
Các pháp cũng như vậy. |
Như người uống rượu say |
Thấy mặt đất xoay chuyển |
Kỳ thật đất chẳng động |
Các pháp cũng như thế. |
Pháp duyên khởi không có |
Không có lại chẳng có |
Phân biệt cái không có |
Cho nên khổ không diệt. |
Phân biệt sự có không |
Tranh luận tịnh, bất tịnh |
Xa lìa hai bên ấy |
Bậc trí trụ trung đạo |
Quán thân lúc ban đầu |
Với thân tưởng không thân |
Nếu hay biết như vậy |
Chính là tánh vô vi |
Mắt, tai, mũi vô hạn |
Lưỡi, thân, ý cũng vậy. |
Nơi căn mà phân biệt |
Với thánh đạo vô dụng |
Với các căn vô hạn |
Thể ngoan, không, vô ký |
Muốn mong vui Niết bàn |
Phải tu nghiệp Thánh đạo |
Diễn thuyết Tứ niệm xứ |
Ngu bảo thân chứng mạn |
Thân chứng không ngã mạn |
Vì hay diệt các mạn |
Diễn thuyết về Tứ thiền |
Ngu bảo đắc thiền hành |
Người diệt mê không mạn |
Nhờ huệ quán đoạn mạn |
Diễn thuyết bốn chơn đế |
Kẻ ngu bảo thấy đế |
Thấy thật thì không mạn |
Thế Tôn nói như vậy. |
Tuy đọc hết các kinh |
Ý nghe nhiều, hủy giới |
Nghe nhiều không thể cứu |
phá giới, khổ địa ngục |
Tự thị, ý trì giới |
Mà không học Ða văn |
Quả báo trì giới hết |
Trở lại thọ các khổ |
Ða văn cùng trì giới |
Cả hai không ỷ lại |
Khinh mạn người phước mỏng |
Do đó sanh các khổ |
Mạn là gốc các khổ |
Các đạo sư đã nói |
Có mạn, khổ tăng trưởng |
Lìa mạn, khổ liền diệt. |
Ðời tuy tu Tam muội |
Mà không lìa ngã tưởng |
Lỗi lầm lại khởi lên |
Giống như ưu Ðiệt Ca |
Nếu tu sự vô ngã |
Trong đó sanh vui mừng |
Là nhân vui Niết bàn |
Chẳng do pháp thế gian |
Như bị lũ giặc vây |
Vì sống muốn chạy trốn |
Không chân, không thể chạy |
Liền bị giặc giết hại |
Vậy, kẻ si phá giới |
Muốn ra khỏi thế gian |
Không giới, không thể đi |
Bị già, bệnh giết chết |
Như giặc mạnh cầm đao |
Cướp giật hại khắp nơi |
Phiền não cũng như vậy |
Hại thiện căn chúng sanh |
Nhiều người nói Ấm không |
Không biết ấm vô ngã |
Nếu hỏi Ấm có không? |
Nhăn mày, giận đối đáp |
Nếu biết Ấm vô ngã |
Nghe chửi, tâm không giận |
Có hoặc buộc, thuộc ma |
Ngộ, không, không phẩn nộ |
Như người bệnh, thân đau |
Nhiều năm khổ bức não |
Bệnh này qua nhiều năm |
Tìm thuốc muốn chữa trị |
Người ấy hỏi nhiều nơi |
Liền gặp được thầy hay |
Xót thương cho thuốc tốt |
Bảo uống, bệnh không lành |
Không phải lỗi thầy thuốc |
Nên biết lỗi người bệnh. |
Nơi pháp này xuất gia |
Ðọc tụng Ðạo phẩm giáo |
Nói và làm không giống |
Làm sao được giải thoát? |
Thể tánh chư pháp không |
Con Phật quán việc ấy |
Tất cả hữu đều không |
Ngoại đạo không hề có |
Trí không cạnh tranh ngu |
Dũng mãnh nên lìa bỏ |
Bị mắng không báo lại |
Pháp ngu ngươi chớ ghét |
Trí, không ngu, qua lại |
Khéo biết do tánh tập |
Tuy lại cùng thân nhau |
Sau trở thành oán ghét |
Trí không thân với ngu |
Biết chí họ không bền |
Thể tánh tự phá hoại. |
Ðừng làm bạn với ngu |
Nếu nghe lời như pháp |
Người hủy giới không vui |
Tự nhiên khởi sân hận |
Nên biết là người ngu |
Người ngu hợp người ngu |
Như phân trộn với phân. |
Trí với trí cùng ở |
Như hợp hai đề hồ |
Không quán lỗi thế gian |
Nên không tin nhân quả |
Không tin lời Phật dạy |
Ở đời bị hoại ly |
Bần cùng không của cải |
Không sống, cầu xuất gia |
Pháp ta, đã xuất gia |
Lại tham trước y bát |
Họ gần ác tri thức |
Phá hủy cấm giới ta |
Không tự quán việc mình |
Trong tâm không an trú |
Ngày đêm sống phi pháp |
Làm ác không biết chán |
Thân tâm luôn phóng dật |
Miệng thường nói lời thô |
Luôn rình mò lỗi người |
Thất rồi nói người khác |
Tự che lỗi của mình |
Là tướng rất ngu si. |
Người ngu ham ăn uống |
Vẫn không tâm báo đền |
Ðược món ăn thượng diệu |
Mà không đúng với pháp |
Lại ăn vào bị hại |
Như voi ăn sen bùn |
Tất cả món thượng vị |
Người trí tuy ăn vào |
Căn tịch tịnh không tham |
Như pháp chọn món ăn |
Tuy có người trí sáng |
Hỏi ngu đến từ đâu? |
Với họ, không thân luyến |
Chỉ khởi lòng xót thương |
Người trí lợi kẻ ngu |
Kẻ ngu làm suy tổn |
Ta thấy lỗi này rồi |
Như nai ở chỗ trống |
Người trí thấy lỗi này |
Không ở chung với ngu |
Nếu qua lại với ngu |
Mất cả trời Bồ đề |
Người trí thường từ bi |
Từ bi hợp với hỷ |
Thường xả tất cả hữu |
Tu định, chứng Bồ đề |
Ngộ đạo, trừ lo sợ |
Thấy người già chết khổ |
Nên khởi lòng xót thương |
Nói lời hợp chân nghĩa |
Nếu người biết Phật pháp |
Lìa ngôn thuyết thánh đế |
Nếu ai nghe pháp này |
Lìa tham thực, thanh thương. |
Này đồng tử, về ý nghĩa đó, muốn được thành tựu hạnh kiên cố, Bồ tát nên học như vậy. Vì sao? Này đồng tử, nhờ hạnh kiên cố nên Bồ tát đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề không khó khăn, huống gì là Tam muội này!
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:
–Hy hữu thay! Thế Tôn, Như Lai, bậc Ứng chánh biến tri đã khéo nói về hạnh kiên cố này để nhập vào pháp Tam muội ấy. Ngài đã khéo nói khéo kiến lập điều tất cả Bồ tát phải học. Ðó chính là tất cả hành xứ của Như Lai, không phải là địa vị của Thanh văn, Bích chi Phật làm được, huống chi là ngoại đạo!
Bạch Thế Tôn, nay con sẽ trụ hạnh kiên cố này. Vì sao? Vì con muốn như Phật đã học. Nay con muốn học vì con muốn biết A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề ấy. Con muốn phá hoại ma Ba tuần và quyến thuộc của chúng. Con muốn giải thoát tất cả khổ cho chúng sanh. Cúi mong đức Như Lai và Tỳ kheo tăng cùng các quyến thuộc chứng minh chấp nhận sự thỉnh cầu của con, thương xót con.
Bấy giờ đức Như Lai và Tỳ kheo tăng im lặng chấp nhận. Ðồng tử Nguyệt Quang thỉnh Phật và Tỳ kheo tăng sáng ngày mai đến thọ thực và được Phật chấp nhận.
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang đã được đức Như Lai chấp nhận sự cúng dường nên vui mừng nhảy nhót, rất đổi hân hoan, liền từ tòa đứng dậy, trạch vai áo bên hữu, đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng rồi cáo từ ra về.
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang hướng về thành Vương xá trở về nhà mình. Về đến nhà, liền ngay đêm ấy chuẩn bị các thứ ẩm thực thượng vị nhiều vô số. Tại thành Vương xá, nơi nơi đều treo lụa năm màu, rải các loại hoa, treo phướn lọng, đốt các hương thơm, bố thí các mùng màn, quét sạch đường sá, vứt bỏ ngói gạch. Tại ngã tư đường rưới nước làm cho sạch sẽ, rải tung bột chiên đàn và các loại quý báu khắp nơi. Lại tung các loại hoa, các thứ hao báu xen kẻ trên mặt đất giống như hình vẽ. Lại dùng vô lượng vật dụng chạm trổ, trang nghiêm các nẻo đường. Trong thành, khắp nơi đều có hoa Ưu bát la, hoa Câu vật đà, hoa Bát đầu ma, hoa Phân đà lợi. Ở trong nhà toàn dùng ngưu đầu chiên đàn rải quanh, dùng các thư trang nghiêm, trương các trướng báu. Vì đức Phật Thế Tôn, đồng tử đặt những món ăn thượng vị.
Khi đồng tử làm những việc trang nghiêm thành quách, đường sá, nhà cửa như vậy, bày các vật cúng dường suốt đêm đầy đủ, đến lúc sáng sớm, cùng với tám mươi na do tha Bồ tát, Bồ tát A Dật Ða làm thượng thủ. Các vị ấy là: Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Ðại Thế Chí, Bồ tát Hương Thượng, Bồ tát Bảo Tràng, Bồ tát Man Thắng, Bồ tát Ðồng Tử Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Dũng Kiện Quân, Bồ tát Diệu Tý, Bồ tát Bảo Hoa, Bồ tát Bất Hư Hiện. Các Bồ tát ma ha tát như vậy ... đối với các Bồ tát khác là bậc thượng thủ, cùng các chúng Ðại Bồ tát như vậy, trước sau vây quanh, ra khỏi đại thành Vương xá, đến chỗ đức Như Lai, sửa lại y phục, đầu mặt đảnh lễ, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, bạch đức Phật:
–Thưa Thế Tôn, đã đến giờ thọ thực, trai soạn đã dọn xong, mong ngài hạ cố vào thành Vương xá, đến nhà con, vì lòng xót thương, thọ nhận sự cúng dường của con.
Bấy giờ đức Thế Tôn, trước đó đã đắp y, cầm bát, cùng Ðại Tỳ kheo ngót đến trăm ngàn vị, vô lượng trăm ngàn ức na do tha Bồ tát ma ha tát, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già ... vô lượng trăm ngàn vị đồng tử đã thiết lễ cúng dường, cung kính tán thán đại oai lực của Phật, đại thần túc của Phật, đại biến hiện của Phật, đại oai nghi của Phật, đã phóng ra trăm ngàn vạn ức na do tha ánh sáng, tấu lên trăm ngàn loại kỹ nhạc, mưa các thứ hoa trời. Vì thọ nhận sự cúng dường của đồng tử Nguyệt Quang, nên đức Phật vào thành Vương xá.
Ðức Phật với sự tích tập vô lượng thiện căn từ lâu, đưa bàn chân mặt có bánh xe ngàn căm bước vào thành. Khi ấy hiện ra vô số sự thần biến chưa từng có. Chư Phật Như Lai, nếu khi vào thành, pháp đều như vậy là hiện sự thần biến. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà nói.
Khi đức Phật vào thành, có thần đức nói kề tụng rằng:
Ðại tiên vào thành vua |
Chân ngài bước vào thành |
Oai lực động đại địa |
Chúng sanh đều hoan hỷ |
Các người thiếu ăn uống |
Ðược lìa khổ đói khát |
Trong tâm đều no đủ |
Nhờ Phật vào của thành |
Người điếc, đui, câm, ngọng |
Kẻ bần cùng phước mỏng |
Các căn đều đầy đủ. |
Nhờ Phật vào cửa thành |
Ngạ quỷ cõi Diêm la |
Ăn đờm, mủ, phân, tiểu |
Ðược món ăn của trời. |
Nhờ Phật bước vào thành |
Các núi và núi báu |
Các thứ rừng hoa quả |
Cong mình hướng về ngài. |
Nhờ Phật bước vào thành |
Biển cả, thành, tụ, ấp |
Ðất có sáu chấn động. |
Không bức não chúng sanh. |
Nhờ Phật bước vào thành |
Người, trời, Cưu bàn trà |
Hoan hỷ giữa không trung |
Cầm lọng báu che Phật |
Phát tâm đại Bồ đề |
Các âm nhạc không đánh |
Tự nhiên phát tiếng hay |
Mọi ngươi đều hoan hỷ |
Nhờ Phật bước vào thành |
Trăm ngàn vạn ức cây |
Dâng Phật đủ hao quả. |
Chư thiên đứng giữa không |
Vật cúng khác loài người |
Trăm ngàn các Ngưu vương |
Vua thú, sư tử rồng |
Voi, ngựa đều cúi lạy. |
Nhờ Phật bước vào thành |
Ðại vương trong các nước |
Thấy Thế Tôn Thập lực |
Ðạo sắc thắng diệu |
Hoan hỷ nên đảnh lễ |
Mọi người tâm mừng khen |
Hoặc tung các diệu hoa |
Chấp mười ngón tay lại |
Khen Phật là đại bi |
Hoặc tung các anh lạc |
Ấn Cừ Tý kim ngân |
Tung lên trên sư tử (?) |
Phát tâm đại Bồ đề |
Người nữ dâng tóc vàng |
Hoặc rải các hoa thơm |
Hoặc cởi vàng, anh lạc |
Trang điểm nơi thân thể |
Có người tung hoa vàng |
Các vật để trang sức |
Một lòng dâng cúng hết |
Mong cầu các Phật đạo |
Dân chúng mặc y đẹp |
Hoặc lại rải đảnh châu |
Và giăng các lưới báu |
Khi Phật vào của thành. |
Nếu người bệnh khổ bức |
Vì các nổi ưu sầu |
Tất cả đều an lạc |
Nhờ oai đức đạo sư. |
Câu xí la, Anh võ |
Khổng tước và Tần già |
Các chim trong không trung |
Phát tiếng hay hòa nhã. |
Các chim tâm vui mừng |
Khi phát diệu âm này |
Người tu hành diệt được |
Tham, sân, si, phiền não |
Vô lượng ức chúng sanh |
Nghe tiếng được thuận nhẫn |
Ðược bậc Thánh thọ ký |
Vị lai đều thành Phật |
Thấy thân Phật Thập lực |
Chúng sanh thích trí Phật |
Con làm sao để được? |
Phật biết muốn thọ ký |
Mỗi lỗ chân lông Phật |
Phóng trăm ngàn ánh sáng |
Chiếu khắp các cõi Phật |
Do Phổ Nhãn vào thành |
Mặt trời bị lu mờ |
Ma ni, Bảo thiên hòa |
Các ánh sáng không hiện. |
Vì Phật vào cửa thành |
Trăm ngàn hoa sen nở |
Ngàn cánh ra khỏi bùn |
Ðấng Thập lực bước lên |
Cùng chúng dạo khắp thành |
Ðường đi thật sạch sẽ |
Trải toàn bằng hương quý |
Khắp thành đốt hương thơm |
Mùi thơm thật khả lạc |
Ðường sá thật tráng lệ |
Trừ khử hết ngói gạch |
Nhờ công đức Thập lực |
Ðủ các thứ hương hoa |
Trăm ngàn ác Dạ xoa |
Thấy thân Phật sắc vàng |
Khởi tâm đại bi mẫn |
Tịnh tâm quy y Phật |
Các thiên cung trống không |
Ðều đến chiêm ngưỡng Phật. |
Hư không mưa các hoa |
Khi Phật vào thắng thành |
Nếu có ai rải hoa |
Chỗ đức Nhân thiên sư |
Thành lọng hoa che Phật |
Trang nghiêm thân tốt đẹp |
Người, trời và Tu la |
Thấy Phật bậc Thập lực |
Tâm hoan hỷ vui mừng |
Chưa từng có nhàm chán |
Bên mặt, trăm ngàn Phạm |
Bên trái trời Ðế thích |
Vô số trời không trung |
Cung kính bậc Tam giới |
Khi Phật thần biến xong |
Khai thị thắng diệu pháp |
Trăm ngàn chúng nghe xong |
Phát tâm đại Bồ đề |
Tướng tốt, hoa làm thân |
Như sao đầy bầu trời |
Phật đi đường của vua |
Như trăng tròn trên trời |
Như báu tịnh ma ni |
Trong sạch, không tỳ vết |
Phóng ánh sáng mười phương |
Cõi Phật chiếu cũng vậy |
Chúng cư thiên vây quanh |
Nhân tôn vào thành vua |
Ði trên đất như sẽ |
Vào nhà của Nguyệt Quang |
Thành quách đều trang nghiêm |
Trăm ngàn ức phướn lọng |
Chiên đàn rải mặt đất |
Tung hoa để trang nghiêm |
Ði Phật đi trên đường |
Phát lòng thương rộng lớn |
Từ miệng tuôn ánh sáng |
Tỏa hương mà thuyết pháp |
Thấy thân Phật liền vui |
Hoan hỷ bất tư nghì |
Khi nào chúng ta được |
Cúng dường bậc Pháp vương |
Vô lượng người phát tâm: |
“Sáng mai ta thỉnh Phật |
Bậc cứu tế lân mẫn |
Rất lâu khó gặp được”. |
Hoặc dọn sạch đường thành |
Thắng diệu tự trang nghiêm |
Ðủ các hoa, anh lạc |
Cúng Phật, vì Bồ đề |
Hoặc vòng hoa chiêm ba |
Bà sư, Mục đa già |
Hoặc là giăng vải lụa |
Phát chí tâm thuần thắng |
Hoặc tại gia tâm tịnh |
Y đẹp tự trang nghiêm |
Dùng lụa đẹp, các hoa |
Cúng dường chúng Tỳ kheo |
Với hoa Ưu bát la |
Lại tung hoa Diệu kim |
Các thứ báu ma ni |
Hoặc tung bột chiên đàn |
Hiện các việc hy hữu |
Không thể tính vô lượng |
Khi Phật đi vào thành |
Nhiều người phát tâm đạo |
Không phiền não thấy đế |
Trời Thiên hiện, Thiện kiến |
A ca ni ly dục |
Tất cả đến xem Phật |
Thân ngọt ngào quả lớn |
Trăm na do tha chúng |
Như ma ni chiếu sáng |
Ðều lại chiêm ngưỡng Phật |
Vô số Tịnh thiên tử |
Và các trời Thiểu tịnh |
Vô lượng Tịnh thiên tử |
Ðều đến xem Ðại tiên |
Các Thiên tử Thiểu quang |
Và trời Vô lượng quang |
Các Thiên tử Quang Âm ... |
Ðều đến xem đức Phật |
Thiên tử trời Phạm phụ |
Cùng với trời Phạm chúng |
Các định tạng Ðại Phạm ... |
Ðều đến xem Thế Tôn |
Tha hóa thiên hoan hỷ |
Hóa lạc thiên thiện tâm |
Chúng Ðâu suất, Diêm ma |
Thiên vương Ba mươi ba |
Bốn Thiên vương bốn phương |
Tài chủ Tỳ Lâu Lặc |
Án Nhãn Ðề Lại Tra |
Liền đến lễ kính Phật |
Ðại Lực vua Dạ xoa |
Cùng quyến thuộc tâm tịnh |
Thân tộc trên hư không |
Mưa các diệu hoa trời |
Hằng Túy cầm hoa trời |
Nắm các thứ vòng hoa |
Cùng quyến tộc tâm mừng |
Cúng dường thắng trượng phu |
Bách Khí Túc Dạ xoa |
Cùng vợ và quyến thuộc |
Tự tấu âm nhạc hay |
Cúng dường đức Như Lai |
Vui mừng say sưa hát |
Là vua Khẩn na la |
Sống ở cảnh Hương Sơn |
Vui mừng đến tập hội |
Bà Nhã Chim Bà Lợi |
La Hầu, Tỳ Ma Chất |
Cùng đại oai đức khác |
Mưa các loại vật báu |
Nhiều vô lượng La sát |
Số đông đang vây quanh |
Ðều cầm các diệu hoa |
Cung kính tung lên Phật |
Ðại long vương A Nậu |
Nữ Thiện học âm nhạc |
Tấu trăm thứ tiếng hay |
Thành tâm cúng dường Phật |
Năm trăm Nậu Long tử |
Cầu trí Bồ đề rộng |
Cùng quyến thuộc vây quanh |
Ðều cúng Vô thượng tôn |
Long vương A Ba La |
Chấp tay hướng về Phật |
Cầm trân châu Long thắng |
Trên không cúng dường Phật |
Long vương Mục Chân Ðà |
Nhảy nhót rất vui mừng |
Tung các áo thật đẹp |
Tịnh tâm mà cúng dường |
Họ khởi tâm cung kính |
Nhớ các đức tánh Phật |
Các thân quyến vây quanh |
Ðều đến khen ngợi Phật |
Nan Ðà, Bạt Nan Ðà |
Ðức Xoa, Hắc Cù Ðàm |
Cùng quyến thuộc đến Phật |
Quỳ gối lạy Thiện Thệ |
Long vương Y La Bát |
Trăm quyến thuộc khóc lóc |
Nhớ nghĩ Phật Ca Diếp |
Chán ghét sự thọ sanh |
Xưa ta mãi nghi hoặc |
Phá Tiểu Y Lan Diệp |
Nên sanh nơi nạn xứ |
Không thể biết Phật pháp |
Rất ghét thân rắn này |
Muốn mau bỏ loài rồng |
Hay biết pháp thanh lương |
Ðã đạt được đạo tràng |
Hằng ngàn Long vương khác |
Hải Long, Ma Na Tư |
Ðem áo rồng thượng diệu |
Ðến dâng Nhân Trung Tôn |
Ðiều Ðạt đôi đá Phật |
Dạ xoa hư không nắm |
Tên là Kim Tỳ la |
Cung kính đến trước Phật |
Thành A Tra Dạ xoa |
Ðại Dạ xoa Không Thiên |
Giao hẹn cùng tập hội |
Cúng dường bậc Ðại tiên |
Dạ xoa Khôi Mao Châm |
A Tra Bà đáng sợ |
Tuyết Sơn, Ðà Ða Sơn |
Lừa Dạ xoa quy Phật |
Các thân hình khác nhau |
Mặc áo rách đáng sợ |
Quỷ Ða Na Do Tha |
Dâng vật quý cúng Phật |
Kim sí điểu Thực Hải |
Biến thành Bà la môn |
Mão báu tự trang nghiêm |
Trên hư không lạy Phật |
Các thành ở Diêm phù |
Tất cả trời Ðại Lâm |
Thần của thành đồng đến |
Cúng dường Thế gian giải |
Vô lượng Lâm thiên đến |
Cùng với các thọ thần |
Cùng tất cả thần sông |
Vân tập đến Pháp vương |
Thần núi Phong Nham Lãnh |
Trời Ðội Phụ cùng đến |
Thần suối với ao hồ |
Cùng Hải thần mừng đến |
Trời, người, quỷ, tu la |
Ca Lâu với Cưu bàn |
Ngạ quỷ, Phú đơn na |
Ðều đến cúng dường Phật |
Chư thiên, chúng tu la |
Ly mạn, đều cúng dường |
Thấy Phật vào Vương thành |
Nhìn mãi mà không chán |
Hơn tu Bồ tát hạnh |
Cúng dường Phật Thế Tôn |
Ngài làm tịnh nghiệp này |
Chúng sanh nhìn không chán |
Núi Tu di luân thảy |
Và các núi Diêm phù |
Không thể làm chướng ngại |
Chư Phật chiếu sáng cõi |
Các biển Ta bà này |
Ðất đai đều bằng phẳng |
Cõi Phật đều biến khắp |
Rải dẫy đầy các hoa |
Trăm ngàn các ánh sáng |
Phóng dưới chân Pháp vương |
Ðịa ngục đều mát mẻ |
Trừ khổ được an lạc |
Ðấng Thập lực thuyết pháp |
Trời, người được tâm tịnh |
Vô lượng trăm ngàn chúng |
Quyết định nơi Phật đạo |
Vô Ðẳng Ðẳng vào thành |
Hiện sự thần biến này |
Vô lượng trăm ngàn kiếp |
Phật nói vãn không cùng |
Thắng đức tụ như vậy |
Ngưu vương vượt bờ kia |
Tất cả đức cứu cánh |
Cúi lạy Phật phước điền. |
Bấy giờ đức Thế Tôn cùng các Tỳ kheo trước sau vây quanh, đi đến chỗ ở của Ðồng tử Nguyệt Quang, ngồi lên tòa đã đặt sẵn. Các Tỳ kheo thứ lớp ngồi xong, khi ấy đồng tử Nguyệt Quang biết đức Phật, Bồ tát, Tỳ kheo đã ngồi xong, tự tay bưng dọn các món ăn tuyệt hảo. Ðó là: Khư thiền ni, Bồ thiền ni, Lê kha na, Chư xa ni ... lại đem nước uống, dùng thức ăn trăm vị, làm cho đức Như Lai và đại chúng được no đủ. Khi thấy chư Tôn đã no đủ, đồng tử vui mừng nhảy nhót, hết sức hân hoan.
Ðức Phật và đại chúng đã thọ thực xong, cất bát, rửa tay. Ðồng tử dùng y giá trị vạn ức dâng lên Như Lai. Chúng Tỳ kheo tùy theo thứ lớp: thượng, trung hay hạ, đồng tử đều thứ lớp dâng cúng. Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang dâng y lên Phật và tăng xong, trạch vai áo bên phải, quỳ gối mặt xuống đất, chắp tay đảnh lễ, đứng trước đức Phật im lặng, nói bài kệ để hỏi đức Thế Tôn:
Bồ tát, bậc trí làm hạnh gì?
Thường hay biết rõ các pháp tánh?
Làm sao thay vào nghiệp đã tạo?
Cúi mong Ðạo sư nói cho con
Làm sao biết được kiếp quá khứ?
Làm sao không vào bào thai nữa?
Làm sao để được chúng không hoại?
Làm sao để được vô lượng biện?
Ðịnh huệ Vô thượng Lưỡng túc tôn?
Như điều con hỏi xin ngài nói
Biết được tâm hạnh các chúng sanh
Với tất cả pháp không còn nghi
Phật biết thể tánh tất cả pháp
Pháp lìa ngôn ngữ dùng ngôn thuyết
Như sư tử hống dã can sợ
Phật hàng ngoại đạo cũng như vậy
Biết việc làm của chúng sanh
Thông đạt các pháp đến bờ kia
Trí huệ vô ngại, cảnh giới tịnh
Cúi mong Thế Tôn nói cho con
Biết đời quá khứ và vị lai
Với đời hiện tại ngài biết rõ
Trí vô ngại ba đời biết được
Cho nên con hỏi Thích sư tử
Các Phật pháp tất cả ba đời
Thế Tôn Pháp vương đều biết rõ
Với thể tánh pháp khéo giác ngộ
Cho nên con hỏi Ðại trí hải
Hay lìa tất cả lỗi các pháp
Vì hay đoạn trừ tâm ô uế
Cắt đứt tất cả dây si uế
Mong Phật nói cho hạnh Bồ đề
Mà Phật đạt được các pháp tướng
Như tướng sở đắc nói cho con
Con nghe pháp tương như vậy rồi
Nương tướng đã nghe hành Bồ đề
Hành tướng chúng sanh nhiều sai biệt
Con làm hạnh gì để hiểu được?
Mong nói cho con pháp nhập hạnh
Con nhờ nghe được nên mới biết
Tất cả các pháp đều sai biệt
Thế thì không tịch tánh xa lìa
Bồ đề làm sao hay biện chứng?
Mong nói cho con pháp mẫu này
Với tất cả pháp đến bờ kia
Ngôn thuyết pháp cú đã tu học
Chính mình không nghi trừ nghi người
Vì con hiển thị Bồ đề Phật.
QUYỂN 3/10
Bấy giờ đức Thế Tôn biết đồng tử Nguyệt Quang trong lòng thầm nghĩ, nên làm bài kệ để hỏi, bảo đồng tử Nguyệt Quang rằng:
–Nếu Bồ tát cùng tương ưng với một pháp, đều có thể đạt được công đức tối thắng, mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Sao gọi là một pháp? –Này đồng tử! Ðó là, nếu Bồ tát đối với thể tánh của tất cả pháp, hiểu biết như thật.
Này đồng tử! Sao gọi là đối với thể tánh tất cả pháp, hiểu biết như thật?
–Ðó là tất cả pháp xa lìa danh tự, xa lìa âm thanh, xa lìa ngôn ngữ, xa lìa văn tự, xa lìa sanh diệt, tướng của nhân, tướng của duyên, tướng của phan duyên. Ðó gọi là Vô tướng, xa lìa nơi tướng, chẳng phải tâm xa lìa nơi tâm mà biết các pháp.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
Các pháp chỉ nói một |
Ðó là pháp Vô tướng |
Là bậc Trí nói ra |
Như thật mà hiểu biết |
Nếu nói pháp như vậy |
Bồ tát mà biết rõ |
Liền được Vô ngại biện |
Nói ức Tu đa la |
Ðược Ðạo sư gia hộ |
Hiển thị nơi thật tế |
Không phân biệt giả danh |
Không có điều để nói |
Dùng một biết tất cả |
Dùng tất cả biết một |
Tuy có các ngôn thuyết |
Nhưng không khởi kiêu mạn |
Trong tâm hay biết rõ |
Tất cả pháp không tên |
Tùy thuận học các tên |
Mà diễn thuyết chơn thật |
Các âm thanh nghe được |
Biết rõ gốc âm thanh |
Biết rõ nguồn gốc rồi |
Không bị tiếng làm nhiễm |
Biết ngằn mé âm thanh |
Tướng các pháp cũng vậy |
Nếu hay hiểu một pháp |
Không còn đi đầu thai. |
Tất cả pháp không sanh |
Hay rõ Vô sanh này |
Biết sanh nói kẻ sanh |
Thì hay biết kiếp trước |
Nếu đối với kiếp trước |
Hay biết tạo nghiệp gì |
Nếu thường biết nghiệp tạo |
Ðược quyến thuộc kiên cố |
Nếu đối “pháp không” này |
Bồ tát hay biết rõ |
Không có gì không biết |
Chẳng phải bờ phiền não |
Ðối với chẳng phiền não |
Phàm phu vọng phân biệt |
Cho nên trong ức kiếp |
Mãi lưu chuyển sanh tử |
Không thể biết vọng tưởng |
Giống như Ðại Ðạo sư |
Ngài không tạo ác nghiệp |
Nên không đọa ác đạo |
Vì các phàm phu này |
Không thể biết nghĩa ấy |
Mới khởi tâm hủy báng |
Như vậy pháp diệt khổ |
Các pháp không thể được |
Chẳng không các pháp tưởng |
Nếu hay biết như vậy |
Tưởng ấy cũng không thấy |
Ta biết tưởng như vậy |
Phàm phu vọng phân biệt |
Nơi pháp lìa phân biệt |
Người trí không mê hoặc |
Ðó là nơi bậc trí |
Chẳng phải cảnh giới ngu |
Là việc làm Bồ tát |
Gọi không, vô phân biệt. |
Ðó là Bồ tát địa |
Việc làm của Phật tử |
Phật pháp diệu trang nghiêm |
Gọi là tịch diệt không |
Tất cả Bồ tát này |
Ðoạn trừ các hữu tập |
Không bị sắc hủy hoại |
An trụ nơi Phật tánh |
Tất cả pháp không trụ |
Vì không có trụ xứ |
Nếu ai biết như vậy |
Ðược Bồ đề không khó. |
Tu Thí, Giới, Văn, Nhẫn |
Tập gần thiện tri thức |
Nếu ai biết nghiệp này |
Mau chứng đạo Bồ đề. |
Người này thương được chư thiên kính
Càn thát, Dạ xoa và ma hầu
Rồng, Quỷ, La sát, Khẩn na la
Tất cả thường đến cúng Bồ tát
Hằng được chư Phật hết lời khen
Ðem lại lợi ích các thế gian
Trí huệ tương tục, thích tịch diệt
Bồ tát thắng diệu thương xót thân
Nếu có Bồ tát hay biết không
Lợi ích vô lượng ức chúng sinh
Xử chúng nhu hòa, diễn thuyết pháp
Người nghe ưa thích nên ái kính
Trí huệ rông lớn càng thêm sáng
Nhờ trí huệ này hay thấy Phật
Cũng thấy cõi tịnh diệu trang nghiêm.
Chư Phật thuyết pháp nghe, thọ trì
Biết tất cả pháp như huyễn hóa
Giống như hư không, tự tánh không
Hay biết thể tánh là không vô
Hay làm như vậy không ô nhiễm
Có ai tu hành Bồ tát hạnh
Trong các sự việc không đắm trước
Biết tất cả pháp như biến hóa
Nhưng với các cõi hiện biến hóa
Hay vì chư Phật làm Phật sự
Thể tánh huyễn pháp không đến đi
Tùy điều mong cầu được lợi ích
Là người hay an trụ Bồ đề.
Hằng nhớ ân tất cả Như Lai
Mong nối giống Phật, không đoạn tuyệt
Hay được thân tịnh diệu sáng rạng
Ðược thành tựu ba mươi hai chủng tướng
Ngoài ra vô lượng thứ lợi ích
Hành thắng Bồ đề, thường kết quả.
Thành tựu đại lực, không thể động
Oai đức các vua không thể bằng
Ðầy đủ phước đức, rất đoan nghiêm
Phước và công đức, oai quang chiếu
Chư Thiên thấy oai không dám nhìn
Là người trí huệ hành Phật pháp
Trụ nơi tâm Bồ đề kiên cố
Cùng các chúng sanh làm thiện hữu
Người ấy không còn các tối tăm
Hiển thị đạo Bồ đề diệu thắng
Lìa đường ngôn ngữ, không còn dục
Chư Pháp tịch diệt như hư không
Có ai hay biết nghiệp như vậy
Thành tựu vô lượng thắng biện tài
Diễn thuyết trăm ngàn tu đa la
Chỉ bày nghĩa vi tế pháp ấy
Bậc trí luôn thành vô ngại huệ
Hay biết thể tánh pháp vi tế
Thường khéo biết chúng sanh tín ấy
Học tập tất cả âm ngôn ngữ
Vì người chỉ bày lý nhân quả
Hay được việc thắng diệu như trên
Giữ đủ lực năng không giảm thiểu
Bậc phạm hạnh vào chúng, không sợ
Hằng nhớ gìn giữ không quên mất
Vì hay khéo ngộ hiểu pháp tánh
Tai không nghe lời không ái ngữ
Thường hằng nghe tiếng thật khả lạc
Miệng thường tuyên nói lời đẹp lòng
Người đó khéo biết pháp tánh vậy
Trí niệm huệ pháp đều thành tựu.
Trong lòng thanh tịnh không uế trược
Nói trăm ngàn kinh không ngừng trệ
Nếu ai diễn thuyết không hư ngụy
Câu chữ sai biệt để tu học
Khéo hiểu ngàn ức các ngữ ngôn
Nghĩa thú danh từ đều khéo hiểu
Nhờ ngộ pháp tánh, có đức ấy
Dạ xoa, La sát, Thiên, Tu la
Ca lâu, Khẩn na, Ma hầu trà
Ðược tám bộ chúng thường kính yêu
Bởi nhờ ngộ rõ pháp tánh vậy
Chúng thần ác tâm Tỳ Xá Xà
Uống máu, ăn thịt rất độc hại
Có ai gìn giữ tịch định này
Thì họ thường hay được hộ vệ
Nghe bậc trí giả, lời rộng lớn
Trong lòng hoan hỷ, lông dựng đứng
Với Bồ đề ấy rất yêu kính
Hay được phước rộng lớn khó nghĩ
Phước báo như vậy khó biết được
Trong trăm ngàn kiếp nói không hết
Hộ trì pháp Bảo Tạng Thiện Thệ
Vô lượng vô biên vô số kể
Liền đem cúng dường tất cả Phật
Các Thế Tôn quá khứ, vị lai
Cùng với hiện tại khắp mười phương
Vì hay tuyên thuyết tịch định vậy
Nếu ai ưa thích sự phước đức
Cúng dường đấng Thập lực, Ðại bi
Chư Phật vô lượng vô số ức
Thời gian như cát trong biển cả.
Lại có người khác thích phước đức
Ðối với thắng nghĩ, trì bài kệ
Vào lúc kiếp tận thời ác thế
Phước đức như vậy rất thù thắng
Nếu ai có thể nghe bài kệ
Người ấy liền cúng tất cả Phật
Vào đời sau cùng, thời ác thế
Ðó là tối thắng thượng cúng dường
Người ấy liền được lợi ích lớn
Thọ nhận cung kính của thế gian.
Các Thập lực, sanh con tối thắng
Với ngài mãi mãi đem cúng dường
Ngài thấy ta ở núi Kỳ xà
Ta liền được thọ ký Bồ đề
Ta đã phó chúc Di Lặc Tôn
Phật kia cũng riêng thọ ký rằng
Người ấy lại làm Phật Di Ðà
Vì nói vô lượng thắng lợi ích
Hoặc lại đi đến nước An Lạc
Lại muốn thích thấy Phật A Súc
Vô lượng vô biên trăm ngàn kiếp
Người ấy không dọa các ác đạo
Ðối với Bồ đề hành thắng hạnh
Thành tựu vô lượng các khoái lạc
Công đức vô lượng, lợi ích lớn
Nay ta đã tuyên thuyết như vậy
Nếu muốn được công đức như ta
Nên giữ kinh này đời sau cùng.
Này đồng tử! Vì ý nghĩa ấy, cho nên Bồ tát ma ha tát có thể biết thể tánh các pháp bất khả tư nghì như vậy sẽ được công đức lợi như thế, khen ngợi công đức chân thật của Như Lai, không hủy báng Như Lai là lời nói không chân thật.
Vì sao vậy?
Vì Như Lai đã được các pháp do đời mà biết. Người ấy biết như thật đối với pháp kia, cũng biết vô lượng công đức của Như Lai, có thể biết như thật về Phật pháp bất tư nghì.
Vì sao vậy?
–Này đồng tử! Ðức Phật có vô lượng, vô biên công đức, không thể nghĩ bàn, xa lìa nơi tâm. Chính vì nghĩ này, nên những người khác không thể nghĩ bàn, không thể so sánh.
Vì sao?
–Này đồng tử! Vì tâm không có tánh, lại không có hình sắc, không thể xem thấy.
–Này đồng tử! Thể tánh của tâm như vậy, chính là thể tánh công đức của Phật. Thể tánh công đức của Phật như vậy, chính là thể tánh công đức của tất cả các pháp. Chính vì nghĩa ấy, này đồng tử, nếu Bồ tát nói về nghĩa thể tánh của tất cả pháp, mà biết như thật. Gọi đó là Bồ tát tịch diệt đối với tâm, khéo hiểu ba cõi, xuất sanh thiện căn, liễu tri như thật, tri kiến như thật, nói như thật, không có nói khác, tùy theo lời nói mà thực hành, không có chấp trước, vượt qua tất cả cảnh giới phiền não, vượt qua dục giới, sắc giới, giải thoát khỏi vô sắc giới, vượt qua cảnh giới của tên gọi, vượt qua cảnh giới tiếng nói, khéo giải thoát pháp văn tự, trí khéo hiểu phân biệt chữ, khéo hiểu lìa pháp ngôn ngữ, biết rõ văn tự, giỏi về văn tự, giỏi về chữ bằng trí sai biệt, trí rộng lớn, trí về chữ, khéo hiểu tất cả pháp bằng trí sai biệt, khéo đối với tất cả pháp bằng trí sai biệt rộng, khéo phân biệt tất cả xứ bằng trí về pháp, cùng tương ưng với Phật pháp bất khả tư nghì, Ma vương Ba tuần và các ma dân, không thể phá hoại.
Khi đức Phật nói pháp này, có tám ức na do tha các trời, người ... được pháp Nhẫn tu vô ngại, tất cả đều được chư Phật thọ ký quả A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề trải qua bốn trăm tám mươi vạn A tăng kỳ kiếp chứng được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề , các thứ danh hiệu, quốc độ khác nhau, nhưng thọ mạng thì giống nhau. Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Nếu có các Bồ tát trí huệ
Hướng đến đạo Bồ đề thắng diệu
Giỏi nơi thắng nghĩa các ngôn thuyết
Hay hành thể tánh tất cả pháp
Miệng thường tuyên thuyết lời chân thật
Khen Phật thật đức nên diễn nói
Hay biết tất cả pháp chư Phật
Ba cõi tôn kính không còn nghi
Tất cả các pháp đồng một nghĩa
Nhờ pháp “Không” nên biết như thật
Chúng không có các tướng dị biệt
Với một nghĩa này đã tu học
Không tưởng phân biệt, tưởng phân biệt
Tưởng chúng sanh, thọ mạng, ngã, nhân
Tưởng tận và vô tận như vậy
Ðọa các tưởng này không còn sót
Không thấy Như Lai có sắc tướng
Bởi biết các pháp vô tự tánh
Cũng không có tướng đẹp tùy hình
Ðể đoạn tất cả điên đảo vậy
Tất cả chư Phật không nghĩ bàn
Xa lìa nơi tâm, thể tịch diệt
Nếu ai hay được biết như vậy
Mới thấy vô thượng lưỡng túc tôn
Nếu ai hay biết tưởng thần ngã
Trong đó phát sanh thắng trí huệ
Biết được các pháp như vậy rồi
Liền được tên gọi thanh tịnh nhãn
Người ấy không có các chướng ngại.
Ðại trí biết rõ đường xuất ly
Sung mãn, đầy đủ hai loại nhân
Không có tất cả các mong ước
Với chỗ chân thật, thấy như thật
Không có tất cả lời không thật
Người ấy khi có các ngôn luân
Tùy thuận tất cả pháp nghi thức
Người trí vượt ra khỏi dục giới
Và sắc, vô sắc, đất phiền não
Hay lìa nhiễm trước nơi ba cõi
Sống ở thế gian, lợi chúng sanh
Vượt qua tất cả các danh tự
Cùng với âm thanh thể tánh không
Tùy thời gian lâu diễn thuyết pháp
Ðối với ngôn thuyết không sở y
Xa lìa các tưởng và hý luận
Ðoạn trừ điên đảo các ác kiến
Ðối với trí huệ, khéo quyết định
Người ấy dũng kiện hạnh như không.
Nếu ma nhiều ức na do tha
Vì để loạn ý nói lời rằng:
“Ai hay chiếu sáng ma quân này
Không theo ma lực, tự tại nhiếp
Vất bỏ tất cả các việc ma
Giới hạnh thanh tịnh, không phiền não
Ai hay ưa thích vui với Thiền
Thì có thể biết thế gian Không
Nếu nói ngũ ấm là thế gian
Ðã biết pháp ấy thể không tịch
Ðã không có diệt cũng không sanh
Tất cả các pháp như hư không
Thà nên vứt bỏ thân mạng mình
Trọn không hủy phạm lời Như Lai
Với giới, hộ trì đến bỉ ngạn
Tùy theo nguyện ước được vãng sanh
Du hành vô lượng các cõi Phật
Thấy nhiều na do tha ức Phật
Trọn không mong ước sanh lên trời
Xa lìa tất cả ước nguyện vui
Người ấy không bỏ sự tinh tấn
Trong thời gian ngắn hành pháp hạnh
Ở trong mười phương chỗ các Phật
Khéo hay ca vịnh và xưng tán
Khi ấy thân đồng tử Nguyệt Quang
Ðược nghe định tịch diệt như vậy
Vứt bỏ tất cả sự lợi dưỡng
Tu hành pháp chư Phật khen ngợi
Nếu có muốn được trí tự nhiên
Tu vì tất cả người thế gian.
Cần phải học Thắng Tam muội này
Nếu học như vậy, hơn trời người.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Nguyệt Quang đồng tử:
–Này đồng tử! Bồ tát ma ha tát ấy, đối với trí Tam muội nói rõ này, cần phải khéo tu tập, hiển thị cho người khác.
Này đồng tử! Thế nào là hiển thị? Ðó là đối với tất cả pháp, khởi tâm bình đẳng, không có bỉ thử, không có phân biệt, không có không phân biệt, không tạo, không khởi, không sanh, không diệt, tất cả vọng tưởng phân biệt, ức tưởng, khởi tưởng, thảy đều đoạn trừ, tâm đã phan duyên, ý đã suy nghĩ, và các giả danh, cũng đều đoạn trừ, cũng đoạn trừ tất cả các giác quán ác, đối với ấm giới, nhập, không có tự tánh, đoạn trừ tham, sân, si. Ðó gọi là: Niệm huệ giải thoát, tàm, quý, kiên cố, tu hành nghi thức, là hành xứ cần thiết. Ðó là chỗ không nhàn, chỗ trí huệ, dứt hẳn khứ lai, là điều tất cả Bồ tát phải học, là hành xứ của tất cả Như Lai, thành tựu tất cả công đức.
Này đồng tử! Ðó gọi là hiển thuyết về Tam muội như vậy. Nếu ai có thể hiển thuyết về Tam muội như vậy, liền không lìa các định trong tâm. Không mất tất cả Tam muội, không có mê hoặc, khởi tâm đại bi, làm lợi ích vô lượng, vô biên chúng sanh.
Bấy giờ đức Thế Tôn ngay lúc đó nói bài kệ:
Bình đẳng, không hiểm trở |
Rất tịch khó thấy được |
Ðoạn trừ tất cả tưởng |
Nên gọi là Tam muội |
Không vọng tưởng phân biệt |
Lìa kiến không thể giữ |
Tâm ấy bất khả đắc |
Nên gọi là Tam muội |
An trụ định như thật |
Không giữ tất cả pháp |
Vì như thật không giữ |
Nên nói định Tịch diệt |
Pháp không có mẩy may |
Cũng không được phần nhỏ |
Vì không được phần nhỏ |
Nên gọi là Tam muội |
Có được cái vô đắc |
Ðó gọi là vọng tưởng |
Với pháp lìa phân biệt |
Nên gọi là Tam muội |
Nhờ tiếng nên nói nghĩ |
Tiếng này là chẳng có |
Giống như tiếng dội lại |
Lại giống như hư không |
Chúng sanh vô sở trụ |
trụ xứ bất khả đắc |
Tiếng được cùng không được |
Tự tánh không thể được |
Hoặc bỏ hoặc đọa lạc |
Bỏ đạo bất khả đắc |
Tiếng bỏ cùng không bỏ |
Với đạo biết như vậy |
Còn có định là thủ |
Còn không định cũng vậy |
Vô trước hành Bồ đề |
Chứng Thánh đạo cũng thế |
Lìa hiểm trụ bình đẳng |
Ðịnh huệ này vô tướng |
Phật tử tu tập nó |
Khéo tu định tương ưng |
Văn tự chẳng có thể |
Vào nghĩa thú sâu này |
Bỏ các việc ngôn ngữ |
Lược định vô sở thủ |
Bồ tát được định này |
Như nói trụ tương ưng |
Dù lửa thiêu thế giới |
Ở trong không bị thiêu |
Vô lượng kiếp hỏa thiêu |
Như hư không, không cháy |
Nếu biết pháp như không |
Người ấy lửa không đốt |
Nếu khi thiêu cõi Phật |
Trong định phát nguyện này |
Diệt sạch hết lửa ấy |
Người và đất không hoại |
Thần túc ấy vô biên |
Qua hư không không ngại |
Tùy học định mà trụ |
Bồ tát được Bồ đề |
Hoặc sanh hoặc biến mất |
Không khởi cũng không diệt |
Nếu hay biết như vậy |
Ðược định này không khó |
Thế gian có sanh diệt |
Ðức Như Lai đã nói |
Nếu hay biết định này |
Nên biết thân cận đời |
Với thế gian không nhiễm |
Thế pháp không thể ngại |
Thân nếu không chướng ngại |
Hay đối các cõi Phật |
Thường thấy nơi tịnh độ |
Và thấy thế đạo sư |
Nên được nghe chánh pháp |
Diễn thuyết tại các cõi |
Ngài không khởi vô tri |
Vào lúc nói pháp tánh |
Hay thông đạt các pháp |
Như tùy theo pháp tánh |
Diễn thuyết trong ức kiếp |
Biện tài không đoạn tuyệt |
Hay biến làm nhiều thân |
Ngoài các Bồ tát khác |
Biến hóa các Bồ tát |
Qua lại các cõi Phật |
Trên hoa sen ngàn cánh |
Kiết già mà an tọa |
Hiển thị Bồ đề Phật |
Tổng trì Tu đa la |
Cùng hằng ức kinh khác |
Nhờ tu tập Tịch định |
Chỉ trừ bất thối chuyển |
Người bất tư nghì khác |
Không thể hết biện tài |
Hiển thị Bồ đề Phật |
Bỏ đi các lầu gác |
Các thứ báu nghiêm sức |
Tung rải các diệu hoa |
Hương thơm thật đáng ưa |
Tung rải các hương bột |
Cùng đốt các hương thơm |
Hoặc tung vô lượng báu |
Vì chứng được Bồ đề |
Bồ tát bậc cứu tế |
Vô lượng đức như vậy |
Ðoạn trừ các phiền não |
Ðạt được thần túc cao |
Không thể sanh phiền não |
Thanh tịnh thật chói sáng |
Vô vi không thể hoại |
Là cảnh giới Bồ tát |
Tịch tịnh, càng tịch tịnh |
Lìa não, không phiền não |
Vượt qua sự hý luận |
Thích pháp không hý luận |
Văn tự không thể vào |
Vì các pháp vô tướng |
Trí biết chỉ âm thanh |
Cho nên gọi là định |
Thắng tịch diệt vô tận |
Vô công dụng, không thấy |
Tất cả cảnh giới Phật |
Thật tế không nhà cửa |
Theo chư Phật tu học |
Tự tánh tất cả pháp |
Học công đức Phật này |
Ðược công đức bỉ ngạn |
Chẳng đây cũng chẳng kia |
Bổn tế vô phân biệt |
Cho nên tất cả Phật |
Ðạt công đức bỉ ngạn |
Với vị lai không bỏ |
Vì đã biết pháp tánh |
Vô công dụng hý luận |
Ðạt công đức bỉ ngạn. |
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:
–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Như Lai, bậc Ứng cúng Chánh biến tri, mới có thể khéo nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp. Ðó là nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp mà Bồ tát phải học. Nếu Bồ tát có thể tu học Tam muội đã được nói ra ấy, sẽ mau chứng được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Con lại muốn nói. Bạch Như Lai! Con lại muốn nói. Bạch Thiện Thệ! Con muốn nói một phần nhỏ.
Ðức Phật nói:
Này đồng tử! Nếu muốn nói cứ nói.
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang ở trước đức Phật, chấp tay hướng về đức Phật, xưng dương thật đức của ngài bằng bài kệ khen ngợi:
Thấy sanh, bị già bệnh chết khổ
Tham sân và si thường mê hoặc
Phật vốn đã phát tâm Bồ đề
Mong thành chánh giác mở các trói
Lành thay, vô lượng kiếp tu hành
Bố thí, điều phục giữ các lỗi
Trì giới, nhẫn nhục, siêng tinh tấn
Khéo tu thiền định và trí huệ
Dùng không hy vọng, bỏ ngôi vua
Vợ con của cải đều bỏ hết
Ðầu, mắt, tay chân và thọ mạng
Tâm ấy ban đầu không mệt mỏi
Cấm giới trong sáng sạch không dơ
Vất bỏ thân mạng thường gìn giữ
Khéo hay cấm chế thân, miệng, ý.
Quy mạng Thiện Thệ chế ngự tâm
An trụ trí huệ trong sức nhẫn
Vì bị cắt thân không phẫn nộ
Nhờ lòng từ máu biến thành sữa
Quy mạng Như Lai rất kỳ đặc
Thành tựu sức mạnh trụ Thập lực
Dùng trí vô lượng chọn các pháp
Phật đem lòng thương đến thế gian
Cứu độ lợi ích đến cõi khác
Ðã biết bản thể các pháp không
Thấy các thế gian đều hư vọng
Ngộ đạo khế hội tánh vô ngã
Biết sự giải thoát vốn không thoát
Xa lìa phiền não và phóng dật
Hàng phục ma lực và ma quân
Biết đạo không cầu trí vô ngại
Nói pháp thanh tịnh vô ngại tịch
Giả sử tinh tú trên trời rớt
Ðất biển thành ấp đều hoại diệt
Hư không vô vi tánh đổi khác
Như Lai hoàn toàn không nói dối
Thấy sự khổ não các chúng sanh
An trụ, đắm trước trong phân biệt
Vì họ hiển thị lìa đắm trước
Gọi là tịch diệt, thậm thâm không
Bất khả tư nghì vô số kiếp
Ðại hùng dũng mãnh học từ lâu
Ðã tu học không đắm tất cả
Cho nên Phật không có các lỗi
Phật đã tu học tất cả pháp
Như pháp đã đắc nói cho người
Nó chẳng phải phàm phu ngu si
Lại chẳng phải tất cả ngoại đạo
Tâm thường an trụ nơi ngã tưởng
Gọi là các phàm phu lỗi lầm
Nếu hay biết được pháp vô ngã
Không có tất cả các lỗi lầm
Ðại hùng đã nói lời chân thật
Hằng thường an trụ nơi thật pháp
An trụ thật pháp như vậy rồi
Lại hay diễn thuyết lời chơn thật
Quá khứ từng tu hạnh chân thật
Mới hay xứng đáng nơi bổn nguyện
Ðạt được diệu quả báu chân thật
Nhờ vậy hay nói lời chân thật
Ðã hành hạnh chân thật đầy đủ
Khéo hay biết được chân thật tế
Ðã tu hạnh chân thật như vậy
Quy mạng Nhân Tôn đại trí huệ
Trí ngài tối thắng không ai bằng
Trí huệ đầy đủ rất sáng rạng
Cuối cùng đạt được thắng trí huệ
Quy mạng bậc ngôn thuyết trí huệ
Hay cùng chúng sanh làm bạn hữu
Từ lâu tu tập tâm từ bi
Hay khéo an trụ nơi bất động
Bất động giống như núi Tu di
Làm thầy trời, người, đầy đức lớn
Giáo thọ đại chúng các quần sanh
Thiện Thệ thắng trí tuệ thậm thâm
Dạy chúng vô úy làm chấn động
Sư tử rống vô úy như vậy
Như vua sư tử oai hùng mãnh
Hàng phục tất cả các ngoại đạo
Giống như sư tử vồ dã can
Ðại hùng điều phục kẻ không điều
Ðiều phục lại hay khéo điều ngự
Hay khiến thành tựu làm thiên hữu
An trụ kiên cố mà không hoại
Thấy các chúng sanh kia khổ não
Chính vì nương vào nơi ngã kiến
Vì họ diễn xướng pháp vô ngã
Không có tham ái và không ái
Người phàm phu ngu si không học
Nương nơi hiểm nạn đường không lành
Vì họ hiển thị đạo chân thật
Ðó là hướng đến đường Niết bàn
Nếu ai đắm trước vào ngã tưởng
Người ấy liền sống rất khổ não
Bởi vì không hiểu pháp Vô ngã
Pháp ấy diệt trừ nơi khổ não
Trong kiếp số bất khả tư nghì
Ðại trí từ lâu từng tu học
Tu học xa lìa đắm trước rồi
Cho nên không có các tội lỗi
Diễn thuyết các pháp cú lìa tội
Thế Tôn xa lìa các lỗi lầm
Khéo nói lời chân thật vi diệu
Miệng thường giải thoát trăm điều sợ
Vô lượng na do trăm ngàn ức
Thiên, Long, Dạ xoa giữa hư không
Ưa thích pháp tối Thánh vô thượng
Người nghe ai cũng hiệp nghĩa chơn
Lời Như Lai hoan hỷ thiện mỹ
Oân hòa hợp thời vừa lòng người
Tiếng hòa hợp vi diệu vô lượng
Thương xót giải thoát vô số người
Kỹ nhạc âm thanh trăm ngàn loại
Một lúc tấu lên tiếng hợp nhau
Chính là tiếng hay trong trời này
Một tiếng Như Lai hay lan khắp
Các loại chim Ca lăng tần già
Ðồng lúc cùng phát tiếng vi diệu
Hay khiến người khác sanh hân lạc
Gặp âm thanh Phật chẳng sánh bằng
Tấu lên âm nhạc của hoan hỷ
Khéo hợp tất cả các cung đàn
Thổi loa, trống, sáo đờn, không hầu
Gặp âm thanh Phật đều không hiện
Tiếng ca múa vua Khẩn na la
Ðã từng khéo học trăm ngàn nhạc
Nếu ai nghe được đều hoan hỷ
Gặp âm thanh Phật đều không hiện
Tiếng Câu Sí, Anh vũ, Xá lợi
Khổng Tước, Ai Loan và Uyên Ương
Có tất cả tiếng chim hay ấy
Gặp âm thanh Phật, đều không hiện
Tiếng mỹ diệu, vui thích, khả ái
Những ca vịnh hay ở thế gian
Dồn tất cả lại đồng tấu lên
Tiếng Phật Tối Thắng vượt hơn chúng
Chư thiên, Dạ Xoa vua Tu La
Tất cả quần sanh trong ba cõi
Thân ngài thượng diệu và tối thắng
Phật phóng hào quang liền che hết
Sắc thân Như lai như hoa nở
Với tất cả tướng tốt rực sáng
Sanh ra quả phước rất thanh tịnh
Hào quang chiếu sáng khắp mười phương
Tiếng ốc, tiếng trống và không hầu
Tiếng hay đồng, bạc, sanh và tiêu
Các âm như vậy cùng hòa hợp
Trăm phần một không bằng một tiếng Phật
Càn Thát, Tu la và Ma hầu
Các tiếng hay ho của Dạ xoa
Cùng với tiếng hay khắp ba cõi
Với Phật trăm phần không bằng một
Tất cả ánh sáng của Phạm thiên
Và các thân sáng trời Hữu đảnh
Thế Tôn nếu phóng ánh hòa quang
Sáng kia không bằng một phần trăm
Thân khẩu ý nghiệp đều thanh tịnh
Vì Bố thí tịnh, đời không nhiễm
Bảo tụ công đức Nhân Trung Vương
Công đức tự nhiên không ai bằng
Tán thán thập lực lời thật xong
Ðồng tử vui mừng nói như vầy:
“Vì con cúng dường Phật, pháp vương
Nguyện phước này thành Thích Ca Văn”.
Phật biết tịnh hạnh, tối thắng kia
Thiện Thệ bấy giờ liền mỉm cười
Di lặc thấy ngài cười, thưa hỏi
“Cúi mong Nhân tôn nói duyên cười
Bấy giờ đại địa sáu chấn động
Trời, Rồng hoan hỷ đứng hư không
Hân hoan chiêm ngưỡng Lưỡng túc tôn
Xin Phật nói cho Nhân duyên cười.
Trí huệ chư Phật đã rõ biết
Chẳng phải Thanh văn đệ tử Phật
Nay muốn vì ai nói Tối thắng?
Xin ngài xót thương, nói cho con
Ngoại trừ Mâu Ni Tôn, từ bi
Tất cả thế gian, ai làm được
Có thể trao cho quả Pháp vương
Xin ngài thọ ký quả Bồ đề.
Nay con khéo hỏi Thế Ðạo sư
Thích Ca, Ngưu vương, đại oai đức
Ðã đến bờ, trí huệ quang minh
Ðoạn trừ tham sân si ô uế
Không thể nghĩ bàn, hằng sa ức
Ðạo sư bao kiếp đã tu hành
Ðể cầu hạnh Bồ đề thắng diệu
Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười?
Hay bỏ thân mình với tay chân
Vợ con, quyến thuộc người thân yêu
Thường hay tu hành Thắng hạnh này.
Cho nên con hỏi đấng Mâu Ni?
Voi, ngựa, xa cỡi và trâu, dê
Nô tỳ, ma ni, chơn châu vàng
Không thấy có các vật sở hữu
Khi hành Bồ đề mà không bỏ
Trí ngài tối thắng, đều hiển hiện
Biết các việc làm của chúng sanh
Tín tâm, tánh dục đã khéo biết
Xin nói duyên gì miệng mỉm cười?
Ai từng cúng dường Nhân trung tôn?
Nay ai lại thành lợi rộng lớn?
Ai hay thực hành việc Phật làm?
Vì ai mà nay hiện nụ cười?
Mặt đất bấy giờ sáu chấn động
Ức hoa sen đẹp mọc từ đất
Hoa này chiếu sáng đủ ức cánh
Sắc vàng rực sáng thật khả ái
Phật tử ngồi trên hoa sen kia
Bồ tát đại thần thông bậc nhất
Vô lượng pháp sư đến vân tập
Cho nên con mới hỏi như vậy
Ðánh trống, khua linh, thổi tù và
Kỹ nhạc ức số như hằng sa
Những loại như vậy các âm nhạc
Trong đó tiếng Phật tối thắng diệu
Câu sí, Tần già, ngỗng và hạc
Các chim một lúc đến vân tập
Ðồng thời hót lên tiếng thật hay
Không thể sánh bằng âm thanh Phật
Ai từng bố thí, trì giới cấm
Tu tập trong vô lượng ức kiếp
Ai lại cúng dường Nhân trung tôn?
Mâu Ni vì ai hiện mỉm cười?
Vì ai xưa khởi tâm cung kính
Ðã từng thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn
Nhờ nhân duyên gì được Bồ đề?
Mà nay hiện sự mỉm cười này?
Ðấng Thập lực ở thời quá khứ
Và đời hiện tại với vị lai
Ðạo sư Thiên nhân đều biết rõ
Cho nên con hỏi bậc Nhân Trung
Nên biết thứ lớp tâm chúng sanh
Với thần túc ngài mà không giảm
Lại biết chúng sanh tâm ưa thích
Cho nên con hỏi Mâu Ni sư
Tu hành hạnh tối thắng Vô thượng
Nhờ pháp tương ưng mà khéo học
Ðạo Bồ đề Phật làm sao được?
Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn
Các pháp vi tế khó thấy được
Không tịch khó quen bất tư nghì
Tu hành sở hành của thập lực
Cho nên con hỏi Thế Ðại sư
Nếu hay khéo tu tâm từ bi
Với bất tư nghì chỗ chúng sanh
Thường không khởi các chúng sanh tưởng
Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn
Cảnh giới tu hành khó nghĩ lường
Ðối với ngằn mé bất khả đắc
Ðã hay vượt qua cảnh giới tâm
Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn
Bố thí, trì giới cứu cánh rồi
Bậc trí sáng tịnh rõ ba đời
Xa lìa tất cả các tội ác
Vì nghĩa gì ngài hiện mỉm cười?
Xá Lơi, Mục Liên, Cư Luật Ða
Và đệ tử khác của Như Lai
Chẳng phải là việc làm của họ
Chỉ cảnh giới Phật tối vô thượng
Vì tất cả pháp đến bỉ ngạn
Các điều phải học đã cứu cánh
Ðạo sư phát sanh lòng thương lớn
Tuyên xướng tiếng bậc nhất vi diệu
Vô lượng A tăng kiếp quá khứ
Cũng từng hỏi nghĩa đức Như Lai
Ðược làm người thân đấng Cứu Thế
Nay đã chứng quả nói cho con
Dạ xoa, La sát, Rồng, Bàn trà
Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn tối thắng
Tất cả cung kính đứng chắp tay
Ðều nghi Thế Tôn vì sao cười
Nhiều chúng Bồ tát đều vân tập
Thần thông đầy đủ nhiều ức cõi
Như Lai tâm sanh Tối Trưởng Tử
Tất cả cung kính đều chắp tay
Ðạo sư Thế Tôn chẳng duyên cớ
Tối thắng trượng phu hiện mỉm cười?
Ngôn ngữ vi diệu âm thanh trống
Vì nhân duyên gì hiên mỉm cười?
Bồ tát Hương Tượng phương Ðông đến
Từ thế giới của Phật A Súc
Vô số chúng Bồ tát vây quanh
Vì hỏi Thích Ca nên đến đây
Lại nữa Diệu thế giới An lạc
Bồ tát Quán AÂm, Ðại Thế Chí
Vô số chúng Bồ tát vây quanh
Ðến hỏi Lưỡng Túc Thích Sư Tử
Vô lượng ức chỗ Phật quá khứ
Cúng dường vô biên đức Như Lai
Giống như số cát trong biển cả
Vì làm Thắng Bồ đề vô thượng
Tất cả chư Phật đều khen ngợi
Với đức Bồ tát đã cứu cánh
Thế giới mười phương đều nghe biết
Văn Thù Sư Lợi đứng chắp tay
Du hành qua vô số cõi Phật
Ðệ tử lớn như vậy khó thấy
Công đức Phật tử đã khéo học
Tất cả chắp tay đứng cung kính
Căn khí tối thắng không ai bằng
Bậc Nhu nhuyến điều phục như vậy
Hay giữ tất cả Pháp Tạng Phật
Xin ngài tuyên thuyết lời hòa dịu
Thế Tôn, Ðạo sư đâu vô cớ
Trượng phu tối thắng hiện mỉm cười?
Tiếng trống vi diệu xin diễn thuyết
Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười?
Câu sí, chim Yến, ngỗng, khổng tước
Tiếng rống Ngưu vương như sấm sét
Xin nói tiếng nhạc trời hay tuyệt
Cúi mong diễn thuyết tiếng thêm vui
Khéo tập từ bi lìa các lỗi
Trí huệ hiện tiền đoạn ngu si
Hiểu nghĩa chân thật lìa văn tự
Trong trăm ngàn kiếp đã tu trì
Quyết định không tịch biết các hữu
Hiển thị khổ diệt các câu nghĩa
Hay hoại tất cả trí ngoại đạo
Không vô chúng sanh và thọ mạng
Chư Phật tu hành trăm ngàn hạnh
Trăm ngàn thứ phước để trang nghiêm
Trăm ngàn chư thiên đều khen ngợi
Trăm ngàn chư Phạm cũng như vậy
Dạ xoa, La sát đều tịnh tâm
Ma hầu, Kim sí, rồng hoan hỷ
Miệng thường tuyên thuyết không chướng ngại
Nghiệp quả tịnh diệu đã khởi ra
Nếu có chư Phật đã diệt độ
Cùng với hiện tại đời vị lai
Tất cả biết rõ không chướng ngại
Từ các công đức đã sanh ra
Ðại hải, đại địa và các núi
Tất cả thảy đều sáu chấn động
Chư Thiên, Tu La, Rồng, Ha hầu
Rải các hoa hương rất thắng diệu
Ðoạn trừ tham, sân và hôn, mạn
Kiềm chế tâm ý đều thanh tịnh
AÂm thanh tịch tịnh, khen vô tướng
Ðại Thánh, Sư Tử rống như vậy
Ðầy đủ biện tài danh xưng lớn
Với mắt, với pháp khéo bình đẳng
Thế gian ai bằng, ai qua nổi?
Cúi mong Ðại bi nói nghĩa cười?
Câu sí, Tần già, và Khổng tước
Mạn mạn các chim, diệu âm thinh
Cùng lúc hót lên thật khả ái
Ít tiếng của Phật cũng hơn xa.
Trống lớn, chiêng vàng, các trống nhỏ
Tù và, tiêu, đờn cầm, không hầu
Ngàn thứ âm nhạc đồng tấu lên
Ít tiếng của Phật cũng hơn xa.
Chư thiên ngàn thứ âm nhạc hay
Và tiếng ca hay các thiên nữ
Hợp lại cùng hát, người yêu thích
Ít tiếng của Phật cũng hơn xa.
Ðạo sư của đời dùng một âm
Tùy tín các thú, hiểu khác nhau
Tất cả đều bảo Phật vì mình
Mong đai Sa môn nói duyên cười?
Diệu âm thinh chư Thiên và Rồng
Ca lầu, Càn thác, Tỳ xá xà
Chúng nó không thể diệt phiền não
Chỉ âm thanh Phật hay đoạn trừ
Tuy lại khởi ái tâm, không nhiễm
Hành từ liền được lìa lỗi sân
Hay sanh trí huệ, lìa ngu si
Người được như vậy, lìa các cấu
Tiếng Phật không thoát ra ngoài chúng
Hay đoạn trăm thứ các nghi ngờ
Với âm thanh ngài không cao thấp
Tiếng hay Mâu Ni, tịch bình đẳng
Giả sử một niệm đều khô cạn
Trời trăng có thể rơi xuống đất.
Thế Hùng hoàn toàn không nói dối
Sáu mươi loại ngữ ngôn thanh tịnh
Tiếng rống rất hay, không sợ hãi
Tiếng Phạm Như Lai xin nói cho
Tịch tịnh nhân gì hiện mỉm cười?
Tất cả quần sanh trong ba cõi
Ðều hay rõ biết việc chúng làm
Quá khứ, hiện tại và vị lai
Xin Nhân Tôn nói vì sao cười?
Có các Như Lai, bậc Ðại bi
Ở trong các lực được cứu cánh
Nhan sắc Như Lai như trăng rằm
Ðâu phải vô cớ hiện mỉm cười?
Bấy giờ, đức Thế Tôn ngay khi ấy nói bài kệ tụng để trả lời Bồ tát ma ha tát Di Lặc:
Ðúng như đồng tử Nguyệt Quang ấy
Tán thán Như Lai không ai bằng
Tán thán Như Lai như vậy rồi
Sau lại vì đời được khen ngợi
Ngày xưa ở thành Vương xá này
Ðã từng xem thấy nhiều ức Phật
Ở chỗ các Phật thường thua hỏi
Ðịnh tịch diệt thắng diệu như vậy
Khi tu hành Bồ đề đạo hạnh
Trong tất cả đời làm con ta
Thường hay đầy đủ vô ngại biện
Thường hằng an trụ nơi phạm hạnh
Người ấy thời cuối, lúc hãi hùng
Chỉ có Di Lặc mới chứng biết
Trong tất cả thời trụ phạm hạnh
Hay phân biệt rộng Tam muội này
Nếu muốn cầu thắng Tam muội này
Khen đạo đang hành, sẽ đạt được
Vô lượng ức Phật đều nhiếp thọ
Cúng dường Ðại Ðạo Sư tối thắng
Ta ở trong trí nên ký thuyết
Với hạnh Thắng Diệu Nguyệt Quang này
Ở thời cuối cùng, không chướng ngại
Ðối với phạm hạnh và thọ mạng.
Biết được ngàn ức các Như Lai
Như xem quả xoài trong bàn tay
Lại nữa, vượt qua hằng sa số
Ở đời vị lai tu cúng dường
Chư thiên và Rồng có tám ức
Chúng Dạ xoa có bảy ngàn ức
Vị lai, cúng dường Lưỡng Túc Tôn
Bọn họ đều hay cùng hộ trợ
Ðược nghe thọ ký như vậy rồi
Hoan hỷ, yêu thích nên sung mãn
Nguyệt Quang nhảy cao bảy Ða la
Ðứng trên hư không lời hy hữu:
Than ơi! Phật nói không gì hơn
An trụ giải thoát trí thần thông
Nhờ an trụ thắng trí quyết định
Tất cả dị luận không thể phá
Xa lìa hai bên, chứng giải thoát
Quán sát sự việc, không đắm trước
Ở trong ba cõi, trí vô ngại,
Hoàn toàn không có các hý luận
Tất cả hý luận mà không nhiễm.
Giác quán các kiến đều đoạn trừ
Khéo tu nơi đạo, không nương tựa
Không vì người phá, chống lại người.
Lại với ba cõi không nương tựa
Ðoạn trừ các kết, hành thanh tịnh
Ðây ái trói buộc, đều xa lìa
Các hữu tương tục, đều diệt sạch
Hiểu rõ tự thể tánh phi hữu.
Thuyết pháp ly ngôn đều biết rõ
Ðối với người điên đảo, vô trí
Như sư tử rống, bắt dã can
Nay Phật vì hiện diệu pháp tạng
Con nay đạt được Diệu Bảo Tụ
Ðoạn trừ tất cả các đường ác
Nay con được Phật, định không nghi
Sắc vàng trăm phước, tay trang nghiêm
Xin đem tay báu xoa đầu con
Ðối với thiên, nhân, trước đại chúng
Cúi mong Nhân Tôn, quán đảnh con
Con nhớ quá khứ lúc tu hành
Nơi còn sư tử trong Phật pháp
Nơi có Tỳ kheo rất thông duệ
Tên gọi Hiền Thí làm pháp sư
Con làm vương tử, tên Hiệt Huệ
Thân gặp bệnh khổ rất nguy khốn
Lúc ngài Hiền Thí làm pháp sư
Nhu nhuyến, ngay thẳng, đầy đức tốt
Năm trăm lương y, không giảm thiểu
Thảy đều đi đến trị bệnh con
Quyến thuộc, thân thích đều sầu lo
Bấy giờ Ðại sư nghe con bệnh
Liền đến chỗ con mà thăm hỏi
Hiền Thí liền sanh tâm xót thương
Vì con mà thuyết Tam muội này
Con được nghe Tam muội này rồi
Không cần của cải, tâm ưa thích
Nhớ biết rõ thể tánh các pháp
Lúc ấy bệnh khổ liền tiêu trừ
Tỳ kheo thực hành hạnh Bồ tát
Ðược thành Phật đạo hiệu Nhiên Ðăng
Khi xưa con, vương tử Hiệt Huệ
Nhờ Tam muội này trừ khổ não
Do nhân duyên ấy nên đồng tử
Ta nhớ việc này nên dặn ngươi
Hay nhẫn mắng nhiếc và hủy nhục
Thọ trì, đọc tụng định như vậy
Tỳ kheo mạt thế có vô lượng
Phóng dật, phá giới nhiều keo kiết
Ðắm trước y bát, ưa làm ác
Khởi tâm bài báng Tam muội này
Tật đố, khinh tháo, thả các căn
Sống nhà thế tục vì tham lợi
Thường nương quán sổ tức kiếm sống
Vì vậy, nên chê Tam muội này
Nắm tay, duỗi chân, mặc tình láo
Ði chạy nói cười tự ngắm bóng
Bạn bè múa tay, theo đường đi
Nếu vào tụ lạc hiện tướng lạ
Như vậy chẳng hợp nghi thức người
Ngày đêm đam mê nơi đồng nữ
Ðối với sắc, thinh, thường đắm trước
Dạo chơi thôn ấp hiện tướng này
Tâm thường ưa thích sự ăn ngon
Giỡn cười, ca múa và âm nhạc
Mua bán đổi chác thường cầu lợi
Ưa thích uống rượu và cỡi ngựa
Sau khi cất chứa nhiều ẩm thực
Chết rồi đọa lạc ba đường ác
Chuyên lo khai khẩn và cày ruộng
Bảo trì tự kỷ nơi trú xứ
Nghe người khác dạy, truyền thơ tín
Vứt bỏ giới cấm và oai nghi
Thân cận bạch y, trái lời Phật
Hủy phá cấm giới, trụ các đạo
Thường tạo nghiệp Phật không khen ngợi
Ðó là lường cân, hay lừa dối
Tạo tác các nghiệp ác như vậy
Vì ác hạnh này, đọa ác đạo.
Có nhiều của cải, vàng với ngọc
Vất bỏ người thân mà xuất gia
Không thể an trụ tu tịnh giới
Trở lại mua bán, tạo nghiệp xấu
Trâu, ngựa, trống mái cùng trứng sữa
Chỉ cho tiền lúa là hơn hết
Vì sao xuất gia, cạo râu tóc
Mà không giữ giới và nghi thức?
Thời quá khứ ta hành Bồ đề
Với trong ngàn kiếp tu khổ hạnh
Ðể cầu định tịch diệt như vậy.
Người ngu nghe vậy liền chê cười
Hành phi phạm hạnh thích nói dối
Thường tham lợi dưỡng rơi ác đạo
Mặc áo phạm hạnh để dối đời
Hủy báng giới định, nói phi pháp
Chỉ muốn tìm lỗi lầm của nhau
Chết rồi đọa lạc ba đường ác
Trong trăm ngàn người không được một
Ðó là hay trụ nơi nhẫn nhục
Bè đảng, đấu tranh, vô lượng người
Vất bỏ nhẫn nhục, thường giận nhau
Ðều tự xưng tán là Bồ tát
Muốn tiếng tăm mình lan các Như Lai ước
Nếu được hư danh tự vui mừng
Thiện hạnh không có huống chi đạo!
Ta từng không nghe cũng không thấy
Người muốn vui không có tịnh hạnh
Bài báng pháp này, không hâm mộ
Mà lại đạt được đạo Bồ đề?
Không mưu sinh , nên xuất gia
Không cầu tất cả Bồ đề phật
Người ngu an trụ trong ngã kiến
Nghe nói Vô ngã liền kinh sợ
Ðây, kia cùng nhau hằng tranh luận
Ngã mạn, tự cao, xâm lấn nhau
Tự cho mình đúng, người khác sai
Thường làm bất thiện, dối hoan hỷ
Thành tựu tịnh giới, các công đức
An trụ tâm từ, hành nhẫn nhục
Ðiều phục nhu nhuyến và thuần thiện
Những thiện nhân ấy đều bị khinh
Nếu ai đương lai khởi tâm ác
Hết sức chống lại điều bất thiện
Ưa thích đấu tranh, làm phi pháp
Bọn họ lúc đó được cúng dường
Ta nay thân thiện khuyên bảo ngươi
Ngươi nên với ta sanh tịnh tín
Như vậy Như Lai đã thuyết giáo
Bọn người ác ấy, chớ thân cận
Kẻ lắm tham ái và sân nhiều
Người rất ngu si, kẻ hôn, mạn
Không hổ, không thẹn, không điều phục
Với họ, người mau khởi sức nhẫn
Nay ta đã nói Vô lượng đức
Tỳ kheo nơi đó không an trụ
Ðâu phải miệng nói, được Bồ đề:
Cần phải kiên cố làm mới được.
QUYỂN 4/10
Bấy giờ Bà Già Bà ở trong đại chúng chỉ giáo việc lợi ích, hoan hỷ xong, liền từ tòa đứng dậy, đi đến thành Vương xá, vào núi Kỳ xà quật trải tòa mà ngồi. Các chúng Tỳ kheo, và chư Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, trước sau doanh vây.
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang cùng tám trăm ức người và Thiên Long, tám bộ quỷ thần... với mười na do tha các chúng Bồ tát ở thế giới khác, cầm các vòng hoa báu, hương xoa, hương bột, y phục, phướn hoa, các thứ âm nhạc, dựng lên lọng, dù, treo các phướn lụa, ra khỏi thành Vương xá, hướng đến núi Kỳ xà quật, đi đến chỗ Như Lai, lấy đầu mặt lạy dưới chân Ngài, nhiễu quanh nhiều lần, dùng các hương hoa, y phục, bảo cái, tràng phan, tấu các âm nhạc, mở cuộc cúng dường lớn. Khi đã cúng dường xong, cúi đầu cung kính, vì để hỏi pháp, nên ngồi qua một bên.
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang nói như vầy:
–Con đối với đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến tri có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Ngài cho phép.
Khi ấy đức Thế Tôn bảo đồng tử :
–Như Lai Ứng chánh biến tri, cho phép ngươi muốn hỏi gì cứ hỏi! Ðiều ngươi hỏi sẽ đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Ta sẽ phân biệt, giải thích cho ngươi để tâm ngươi được hoan hỷ.
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang được đức Phật cho phép liền bạch:
–Bồ tát ma ha tát thành tựu bao nhiêu pháp, mới có thể được Tam muội Vô húy luận, thể tánh bình đẳng như vậy của tất các pháp?
Khi ấy đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang :
–Bồ tát Ma ha tát thành tựu bốn pháp mới có thể được Tam muội vô húy luận, thể tánh bình đẳng như vậy của tất cả các pháp. Những gì là bốn?
1. Khéo học sự nhu nhuyến, đồng ở an ổn, đạt đến sự điều phục, hay nhẫn được sử hủy nhục, thấy pháp trừ ngã mạn. Ðó là pháp đầu tiên. Bồ Tát nếu có thể thành tựu như vậy, liền hay đạt được Tam muội không húy luận, thể tánh bình đẳng như vậy của các pháp.
2. Lại nữa, này Ðồng Tử! Bồ tát ma ha tát thành tựu, giới thiện, giới thanh tịnh, giới thanh tịnh thiện đệ nhất, giới không uế trược, giới không sứt mẻ, giới không thủng, giới không xen tạp, giới vô sắc, định, giới tự tại, giới không thể chê trách, giới không thối lui, rơi rớt, giới không nương tựa vào đâu, giới không thủ trước, giới vô sở đắc, giới thánh khen ngợi, giới bậc trí khen ngợi. Này Ðồng Tử ! Ðó là thứ hai. Bồ Tát đầy đủ pháp này, có thể đạt được Tam muội không húy luận, thể tánh bình đẳng của các pháp.
3. Lại nữa, này Ðồng Tử! Bồ tát ma ha tát rất sợ ba cõi nên khởi tâm sợ hãi, vì nhàm chán ba cõi nên khởi tâm không nhiễm ô, vì không đắm trước ba cõi nên khởi tâm cấp bách. Vì để giải thoát khổ ba cõi cho chúng sanh nên khởi tâm đại bi, vì hướng đến A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, nên phát tâm đại tinh tấn. Này đồng tử! Ðó là thứ ba. Bồ tát thành tựu như vậy, mới có thể đạt được Tam muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp.
4. Lại nữa, này Ðồng Tử! Bồ tát ma ha tát cầu sự nghe nhiều, không bao giờ chán, vì tôn trọng pháp, nên không cầu tài lợi, vì tôn trọng trí huệ nên không cầu tiếng tăm, tùy theo sự nghe, rồi thọ trì, đem nói rộng cho người khác, hiển thị ý nghĩa ấy, vì lòng xót thương, nên không vì người thân thuộc Bồ tát lại nghĩ như vầy: “Làm sao để có thể khiến chúng sanh nào nghe pháp trước, đối với Vô thương Bồ đề, họ mau được bất thối chuyển”. Ðó là thứ tư. Bồ tát thành tựu như vậy có thể được Tam muội vô hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp.
Ðồng tử nên biết, pháp môn Tam muội này được vô lượng chư Phật đã diễn thuyết, vô lượng chư Phật khen ngợi, vô lượng chư Phật hiển thị, vô lượng chư Phật tu tập.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Ta nhớ vô số vô biên kiếp
Có Phật hiệu là Âm Thanh Thân
Ðức Như Lai Âm Thanh Thân ấy
Ở đời thọ mạng sáu ngàn năm
Tiếp theo Phật ấy lại có Phật
Tên Trí Tự Tại, người yêu mến
Ðức Trí Tự Tại, Chánh Biến Tri
Thọ mạng một vạn hai ngàn tuổi
Tiếp theo Phật ấy có đức Phật
Oai đức tự tại, đại thế lực
Ðức Phật oai đức, Nhân Trung Tôn
Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn tuổi
Tiếp theo Phật ấy lại có Phật
Hiệu Ðại Tự Tại, Tự Nhiên Trí
Ðức Ðại Tự Tại Thiên Nhân Sư
Thọ mạng ngót cả ngàn vạn năm,
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Tên của ngài là Phạm Thanh Sư
Ðức Phật Phạm Thanh, Lưỡng Túc Tôn
Thọ mạng ngót cả một ức năm
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Hiệu Chúng Tự Tại, bậc Vô Tỷ
Thọ mạng ngót cả sáu ức năm
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Tên của ngài là Thinh Tự Tại
Ðức Thinh Tự Tại, Bà Già Bà
Thọ mạng ngót cả ngàn vạn năm
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Hiệu là Thinh Thượng, là Thế Ðăng
Ðức Phật Thanh Thượng, Ðạo sư đời
Thọ mạng một vạn bốn ngàn năm
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Hiệu Mãn Nguyệt Diện, Phổ Danh xưng
Ðức Mãn Nguyệt Diện Phổ Danh xưng
Ở đời thọ mạng một ngày đêm
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Tên của ngài là Nhật Diện Mãn
Ðức Phật Nhật Diện, bậc Vô tỷ.
Thọ mạng một vạn tám ngàn năm
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Hiệu của ngài là Phạm Diện Thân
Ðức Phạm Diện Thân, Lưỡng Túc Tôn
Thọ mạng hai vạn ba ngàn tuổi
Tiếp theo đức Phật lại có Phật
Tên của ngài là Phạm Bà Tẩu
Ðức Phạm Bà Tẩu, Thiên Nhân Sư.
Thọ mạng một vạn tám ngàn tuổi
Các Phật như vậy, đồng một kiếp
Con số hai trăm Thế Ðạo sư
Nay ngươi nghe ta nói tên Phật
Ðều là bạn thân trong ba cõi
Phật Vô Hủy Thân, Phật Phổ Âm
Phật Biến Oai Ðức, Phật Biến Thịnh
Phật Thinh Cúng Dường, Phật Danh Thinh
Phật Thinh Thân Dũng, Phật Thinh Thân
Phật Trí Khởi, Trí Thiện Thính
Trí Quang Ánh Tế, Trí Ðẳng Khởi
Phật Trí Diễm Tụ, Phật Trí Dũng
Phật Phạm Thượng, Phạm Mạng, Phạm Thiện,
Phật Thiện Phạm Thiên, Thắng Phạm Thinh,
Phật Phạm Âm, Phạm Thiên, Phạm Thí,
Phật Oai Lực, Oai Chủ, Thiện Oai
Phật Oai Ðức Tự Tại Khởi Oai
Phật Oai Ðức Nhãn, Phật Thiện Thắng
Bố Thượng, Bố Huệ, Thiện Khả Bố
Phật Khả Bố Diện, Phật Bố Khởi
Phật Khả Bố, Bố Thương, Kiến Thật
Thiện Nhãn, Nguyệt Thương, Thắng Ðạo Sư
Phật Thâm Viễn Âm, Vô Biên Âm
Phật Tịnh Âm, Tự Tại Tịnh Âm
Phật Vô Lượng Âm, Thiện Hiện Thinh
Phật Ma Lực Âm, Hoại Thiện Nhãn
Phật Thiện Nhãn, Tịnh Diện, Tịnh Nhãn
Phật Vô Lượng Nhãn, Phật Phổ Nhãn
Phật Thiện Phổ Nhãn, Phật Thắng Nhãn
Phật Nhãn Ánh Tế, Phật Bất Hủy
Phật Ðiều Phục Thượng, Phật Ðiều Phục
Phật Thiện Ðiều Tâm, Phật Thiện Ðiều
Phật Tịnh Căn, Tịch Yù, Tịch Thượng
Tịch Ðức, Cực Tịch, Ðáo Bỉ Ngạn
Tịch Tâm, Vô Thượng, Bậc Như Lai
Phật Trụ Biện Tịch, Thiện Ðiều Tâm
Phật Thiện Ðiều, Tịch Căn, Ðịnh Yù
Phật Tịch Thượng, Tịch Ðức, Xí Thạnh
Phật Ðộ Tịch, Bỉ Ngạn, Ðịnh Dũng
Phật Chúng Nhân Ðà La, Vương Chúng.
Phật Chúng Tự Tại, Ánh Tế Chúng
Chúng Thắng Tịnh Trí, Ðại Chúng Vương
Phật Chúng Chủ, Dũng Kiện Ðại Chúng
Thắng Chúng, Giải Thoát, Chánh Biến Tri.
Phật Kiến Pháp, Pháp Tràng, Pháp Khởi
Phật Pháp Thể, Tánh Khởi, Pháp Lực
Phật Pháp Phật, Diệu Pháp, Dũng Kiện
Phật Tự Tánh, Pháp Khởi, Quyết Ðịnh
Như Phật Tự Tánh Pháp Khởi này
Gồm có tám ức, đồng một tên
Phật này xuất hiện kiếp thứ hai
Các Như Lai này ta từng cúng
Phật tự tánh Pháp khởi, Quyết định
Nếu ai được nghe tên của ngài
Nghe xong, thọ trì, người tịnh nghiệp
Thì mau đạt được Tam muội này
Ta nay đã nói vua Mâu Ni
Sau đức Phật đó có Phật khác
Vô số kiếp không thể nghĩ bàn
Phật hiệu Thiện Thắng, Phật Âm Vương
Ðức Thiện Thắng Vương Như Lai ấy
Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn năm
Hội đầu tiên của Như Lai này,
Có chúng La hán ba mươi ức
Sáu thông, ba minh, căn điều phục
Ðủ đại oai đức bốn thần túc
Thọ thân cuối cùng các lậu hết
Không bị nhiễm ô bởi tám pháp
Bấy giờ lại có chúng Bồ tát
Gồm có cả thảy vạn vạn ức
Ðược sáu thần thông đủ biện tài
Ðã học rốt ráo các pháp thông
Nhờ sức thần thông dạo ức cõi
Dần dà giáo hóa hơn hằng sa
Hỏi đạo đã làm các Như Lai
Ở lại sống nơi thế giới mình
Thông suốt tất cả Tu đa la
Du hành thế giới làm đèn sáng
Ðó là Phật tử đại thần lực
Vì lợi chúng sinh đi các nước
Xa lìa xú uế hành phạm hạnh
Không vì dục lạc tạo các ác
Thường làm chư thiên được vui sướng
Ở trong các hữu không nương tựa
Ở chỗ nhàn hạ thường khất thực
Ở nơi không tịch tu đầu đà
Nghe nhiều, nói khéo phước đức lớn
Hay đối ba cõi không đắm trước
Thích sự thiền định không sợ hãi
Với nghĩa quyết định được biện tài
Với nghĩa câu từ đã khéo học
Phật tử đã nói điều rốt ráo
Nhiếp hộ tất cả các nghiệp thiện
Với số lượng kiếp tu hành xong
Thường được chư Phật đều khen ngợi
Diễn thuyết nghĩa câu đạo giải thoát
Trì giới thanh tịnh không ô uế
Như xe trong nước không đắm trước
Ðối với ba cõi thường nhàm chán
Không bị thế pháp làm nhiễm ô
Trong tâm thanh tịnh nghiệp thanh tịnh
Ít muốn, biết đủ, đày oai nghi
An trụ thường đến trong Thánh đức
Cũng trụ ba minh đạo thù thắng
Cần phải tu hành không phải nói
Tự an trụ pháp nói cho người
Vì các Như Lai khéo nhiếp thọ
Giao phó tất cả pháp tạng Phật
Ở trong ba cõi sanh sợ hãi
Dùng tâm tịch tịnh thường tu định
Thường được gia hộ bởi chư Phật
Nói ngàn ức loại Tu đa la
Nếu nói ức loại Tu đa la
Xa lìa tất cả thế gian giáo
Tin nơi không tịch nói nghĩa sâu
Tiếng tăm vô lượng đức như biển
Ðồng tử! Ta ở vô lượng kiếp
Thường khen ngợi nó không gián đoạn
Nay ta chỉ nói một phần nhỏ
Giống như giọt nước trong biển cả
Khi ấy Phật Thiện Thắng Âm Vương
Nói định Tối thắng tịch diệt này
Lúc đó cõi ba ngàn đại thiên
Chư thiên và người đều nhẩy đầy
Khi đức Phật nói tịch định này
Lúc đó đại địa sáu chấn động
Số chúng trời người như hằng sa
An trụ, không thối đạo Bồ đề
Có Nhân Trung Tôn Vương tối thượng
Hiệu: Công Ðức Lực, Ðại Oai Thần
Có cả thảy năm trăm người con
Nhan mạo đoan chánh rất đẹp đẽ
Có tám ức phu nhân mỹ diệu
Ðều là quyến thuộc trong cung vua
Vua Công Ðức ấy sanh con gái
Cả thảy một ngàn bốn trăm ức
Vua ấy ngày mười lăm tháng tám
Liền muốn thọ trì bát trai giới
Cùng với tám ức na do người
Ðồng thời đi đến chỗ Như Lai
Cúi lạy Vô Thượng Lưỡng Túc Tôn
Liền ở trước Phật ngồi một bên
Như Lai biết tâm vua ưa thích
Ngài liền nói Thắng Tam muội này
Ðức vua nghe xong Tam muội ấy
Vứt bỏ ngôi vua như nhổ dãi
Cùng bỏ tất cả người thân ái
Ở chỗ đức Phật mà xuất gia
Phu nhân hậu cung con thuận thảo
Và các cung nữ đều xuất gia
Quyến thuộc hậu cung và thân tộc
Bảy mươi sáu vạn na do tha
Vợ con đức vua đã xuất gia
An trụ dõng mãnh thường tinh tấn
Kinh hành không nghỉ ngót tám năm
Khi đi kinh hành thì mạng chung
Vị Ðại Thánh Vương mạng chung rồi
Sanh lại nước mình nơi cung vua
Bỗng nhiên hóa sanh không thai nhiễm
Bấy giờ Như Lai còn tại thế
Cha vua tên là Kiên Cố Lực
Mẹ vua tên là Ðại Trí Tuệ
Nhà vua sanh rồi thưa phụ mẫu
Phật Thắng Âm Vương trụ thế chăng?
Khi ấy Như Lai Thắng Âm Vương
Từng nói cho ta Thắng Tam muội
Chẳng là nhân duyên, chẳng vô duyên
Ở trong các hữu chỉ nói một
Là ấn khởi tánh tất cả pháp
Sanh ra vạn ức Tu đa la
Là Vô thượng tài các Bồ tát
Nay Phật vẫn nói Tam muội chăng?
Thuyết pháp không hoại nổi nhân quả
Hay tu Bát Thánh Ðạo tối thắng
Trí huệ Như Lai thấy thế gian
Rõ biết các pháp nhập Thánh đế
Thân nghiệp khẩu nghiệp đều thanh tịnh
Ý nghiệp thanh tịnh, tri kiến tịnh
Vượt qua tất cả các nhân duyên
Là Phật vẫn nói Tam muội chăng?
Hay biết các ấm, giới bình đẳng
Xa lìa tất cả các nhập tướng
Chứng nơi nhẫn tịch diệt, vô sanh
Là Phật vẫn nói Tam muội chăng?
Biện tài vô ngại, nhập tịch trí
Mau hiểu văn tự trí sai biệt.
Hay qua tất cả việc thủ trước
Là Phật vẫn nói Tam muội chăng?
Biết các âm thanh được hân hoan
Thấy chư Phật rồi thêm ưa thích
Ðược con đường Thánh thẳng nhu nhuyến
Phật vẫn nói Tam muội này chăng?
Không khởi sân hận, thường thuận hòa
Nói lời hay đẹp luôn mỉm cười
Thấy các chúng sanh trước an ủi
Phật vẫn nói Tam muội này chăng?
Cung kính tôn trưởng không giải đãi
Lễ bái cúng dường mãi chiêm ngưỡng
Thân mình thanh tịnh đủ bạch pháp
Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?
Với các bạch pháp thường không chán
Sống nơi không nhàn lìa tà mạng
Nhớ nghĩ cấp bậc không quên mất
Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?
Với Ấm thiện xảo, trí thần thông
Xa lìa phiền não bậc điều phục
Hay đọa phàm phu nói lời đạo
Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?
Thường hay siêng tu các thắng hạnh
Xa lìa phạm giới, biết trì, phạm
Và lìa tất cả các thân ái
Pháp vương vẫn nói Tam muội chăng?
Vượt qua tất cả các hữu sanh
Tự biết kiếp trước lìa các nghi
Trong lòng kính pháp nghe tổng trì
Nay Phật vẫn nói Tam muội chăng?
Pháp sanh thâm lợi thắng trí huệ
Tin thích bất động như núi chúa
Ðược môn Tổng trì không thối chuyển
Thế thân vẫn nói Tam muội chăng?
Thường cầu tất cả pháp bạch tịnh
Với trong ác pháp thường xa lìa
Tâm không du nhập bạn phiền não
Như Lai vẫn nói pháp này chăng?
Các học cứu cánh được tự tại
Với các thiền định đã cùng tột
Trí huệ hay khiến tin hoan hỷ
Mâu Ni vẫn còn thuyết pháp chăng?
Tăng trưởng Thắng trí biết sanh trí
Trí huệ vô lượng trí bình đẳng
Biết nơi các thú tùy sanh trí
Vua Mâu ni, thuyết thắng pháp này
Tín tâm xuất gia bỏ thế tục
Không đắm ba cõi, không nương tựa
Ðiều phục tâm mình khiến hân hoan
Là Phật nói Thắng Bồ đề này.
Ở trong các pháp không chấp trước
Thường hay thọ trì tất cả pháp
Với các nghiệp quả tin bất động
Thế Tôn tối thắng nói pháp này
Trí quả báo, giới luật trì phạm
Diệt trừ tất cả các tranh luận
Hay nói không trái, không tranh cãi
Mâu Ni, Lưỡng túc nói pháp này.
Thọ trì nhẫn nhục không sân hận
Hay thiện xảo với các vấn đáp
Biết các pháp cú trí sai biệt
Thế Tôn Ðại bi nói pháp này
Biết ngằn mé quá khứ vị lai
Hay biết tánh Phật pháp ba đời
Biết được ba đời, trí phần đoạn
Thế Tôn tự khiến nói pháp này
Thường hay trụ tâm vào một chỗ
Thường hay an thân nơi Thánh địa
Với các oai nghi thường không đổi
Nhân Trung Ngưu vương nói pháp này.
Có hổ, có thẹn tự trang nghiêm
Biết được thế gian đúng thời nói
Tất cả thường đưa tay bố thí
Thế Thân Vô Thượng nói pháp này.
Thường hay nhiếp tâm có hổ thẹn
Cũng luôn xa lìa ác bất thiện
Tùy thuộc đầu đà thường khất thực
Bậc Mâu Ni Vương nói thắng pháp.
Tâm thường hổ thẹn, thường hân hoan
Với Phật cúng dường, hằng cung kính
Xa lìa kiêu mạn, tu lễ bái
Như Lai nói thắng diệu pháp này
Giữ tâm hạ liệt, kiến an nhàn
Tự hay đo lường ngằn mé trí
Xa lìa vô tri các chướng ngại
Thắng nhân như vậy nói pháp này
Hay nhập tâm trí ngôn ngữ trí
Quyết định hay biết các ngôn từ
Xa lìa tất cả việc không lợi
Như Lai pháp vương nói pháp ấy
Thường được thân cận thiện tri thức
Xa lìa tất cả người bất thiện
Thường được tin Phật, không phóng dật
Mâu Ni nói pháp Vô thượng này
Biết đời giả danh, chỉ ngôn thuyết
Thường chán tất cả khổ thế gian
Với lợi, được mất không mừng, lo
Mâu Ni nói pháp tối thắng ấy
Nếu được cung kính không tự cao
Không được cung kính tâm buông xả
Nếu được xưng tán, tâm không mừng
Là Thế gian sư nói pháp ấy.
Thường bỏ tất cả các ác đạo
Không giao thông cùng người thế tục
Với chúng xuất gia không liên can
Bậc trí tự nhiên nói pháp ấy
Người dũng xa lìa chỗ làm sai
Thường an trụ nơi việc Phật làm
Ðầy đủ oai nghi khéo chế tâm
Ðó là gốc pháp Phật đã nói
Thường xa tất cả pháp phàm ngu
Cũng lìa các pháp nhà ô uế
Thường hộ tất cả các Phật pháp
Pháp này được nói bởi Ðại trí
Ít nói, tốt đẹp khéo tương ưng
Ðối với người thường nói nhỏ nhẹ
Như pháp hàng phục các oán địch
Giáo pháp của Huệ Nhật Ðại Trí
Biết thời, tiết lượng việc ăn uống
Cẩn thận chớ tin pháp phàm phu
Nếu gặp duyên khổ tâm không buồn
Là Thiện Thắng giáo của Như Lai
Nếu thấy người tham được của cải
Thấy người phá giới khởi lòng thương
Dùng lòng từ mẫn để khai hóa
Ðó là Thắng pháp Như Lai dạy
Thường dùng pháp nhiếp hóa chúng sanh
Và bỏ tất cả các tài sản
Ðối với tám pháp không chứa nhóm
Như Lai Ðại Thánh đã dạy vậy
Tán thán trì giới, trách phá giới
Kiên trì tịnh giới không dối trá
Không chứa của riêng hay vứt bỏ
Là Tối Thắng giáo của Như Lai
Hết lòng thưa hỏi các sư trưởng
Tùy theo lời dạy đều làm theo
Thường hay thân cận các pháp sư
Như Lai Tối thắng giáo như vậy
Tâm thường ưa thích hằng cung kính
Cũng thường an trụ nơi chánh kiến
Với các thiện nghiệp hay quyết định
Như Lai Tối thắng giáo như vậy
Tạo các Thiện hạnh là trên hết
Phương tiện thiện xảo vứt bỏ tướng
Xa lìa nơi tưởng và sự tưởng
Là Vô thượng giáo của Như Lai
Với Tu đa la hay hiểu biết
Câu nghĩa chân thật khéo tu học
Chứng trí giải thoát thường thiện xảo
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Mở miệng nói ra lời chánh ngữ
Tâm cảnh đối nhau lời quyết định
Tuyên nói điều gì không nghi ngờ
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Thường nên tu tập các pháp không
An trụ sức giới, vô sở úy
Du hành tất cả nơi tịch định
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Không cầu thân ái và lợi dưỡng
Trong lòng không có các quanh co
Xa lìa tất cả các ác kiến
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Với Ðà la ni được thắng biện
Trí huệ chiếu sáng rộng vô biên
Thuyết pháp không dứt biện tài tịnh
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Với bốn pháp môn tụ tập lâu
Hay nhập vào hạnh tối hiền thiện
Với lời Phật dạy phụng tu hành
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Với nhẫn tùy thuận Phật đã dạy
An trụ nhẫn ấy lìa các lỗi
Xa lìa phi trí, trụ nơi trí
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Nhờ trí trụ nơi phương tiện địa
Tụ tập hạnh xảo thiện Bồ tát
Làm việc tu hành của trượng phu
Là tối thắng giáo của chư Phật
Thường lìa phương tiện không đúng pháp
Như Lai nói đó là Phật địa
Nếu có trí tuệ Phật tùy hỷ
Là Tối thắng giáo của Như Lai
Phật địa rộng lớn chẳng hai thừa
Phàm ngu không trí sanh hủy báng
Người trí được chư Phật nhiếp thọ
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Như Lai khéo biết pháp môn này
Chư thiên cung kính nên cúng dường
Ngàn ức phạm chúng hằng tùy hỷ
Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?
Vô lượng ngàn rồng hằng lễ bái
Khẩn na, Kim sí thường tán thán
Dưới cây Bồ đề đã chứng đắc
Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?
Thường vì người trí có mong cầu
Chính là tài sản thiện thắng pháp
Thắng pháp tài thí vui bậc nhất
Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?
Kho tàng trí huệ nói không cùng
Hay nói ức diệu Tu Ða La
Khéo biết ba cõi trí như thật
Như Lai vẫn nói Tam muội chăng?
Nói về thuyền bè đến bờ kia
Không bị bốn giòng làm trôi nổi
Khiến cho tiếng tăm được thăng trưởng
Cho nên nói định Tam muội này
Tán thán thập loại tối thắng lực
Và khen Nhân trung Ðại Ngưu Vương
Công đức Bồ tát nhiều vô tận
Chính nhờ được Tam muội này vậy.
Nói về tâm từ, trừ sân hận
Làm người đại bi, đại hỷ xả
Với người đại thừa được sức sống
Chính nhờ nói Tam muội này vậy.
Là Sư Tử hống nói Thắng hạnh
Ðó là trí Phật, thắng A Hàm.
Ấn thể tánh tất cả các pháp
Tam muội như vậy Phật đã nói.
Hay được trí tất cả chủng trí
Là khu vườn người cầu Bồ đề
Nó hay phá hoại Ðịnh thắng tịch
Hay sanh công đức của chánh giác
Là Ấn tự tánh tất cả pháp
Ấn Diệu Pháp, vô sanh tịch diệt
Ðạo sư đã nói thắng Tam muội
Với người trụ pháp làm đèn sáng
Ở trong oán thù mà không thù
Như pháp hàng phục các ma quân
Ðạo sư nói thắng Tam muội này
Hiển thị sự biện tài vô ngại
Các lực giải thoát và các căn
Mười tám pháp bất cộng tối thắng
Do Tam muội này được pháp ấy
Cầu mong thật pháp bậc Thập lực
Bổn nhân thắng trí của chư Phật
Phật Ðại Trượng phu đã thuyết pháp
Vì xót thương, cứu hộ thế gian
Phật tử tối thắng đã nhiếp thọ
Người cầu giải thất được dục lạ
Nghe định tịch tịnh khó thấy này
Là điều yêu thích các phật tử
Các Phật đầy đủ sự trí huệ
Bồ tát trí huệ khởi tâm cầu
Trong tâm thanh tịnh không phiền não
Phải tu định tịch diệt như vậy.
Thân nghiệp thanh tịnh, miệng cũng vậy
Như Lai chỉ bày cửa giải thoát
Không có tạp uế, ái dục trói
Cần nên siêng tu Tam muội này
Không sanh tham ái và sân nhuế
Sẽ mau đạt được Ðại trí huệ
Hay khởi ánh sáng diệt vô minh.
Cho nên phải tu định tịch diệt
Ngươi cầu giải thoát được viên mãn
Người cầu Tam muội liền đạt được
Lìa sự khen chê, mắt Như Lai
Cần nên tu tập Tam muội này
Sức thông du hành nhiều cõi Phật
Thần thông hay thấy các Phật đức
Ðà La Ni môn, được không khó.
Phải tu định thắng tịch như vậy
Gia trì niệm căn, được Bồ đề
Cũng hay gia trì thấy nhiều Phật
Dùng trí vi tế nói vô sanh
Tu Tam muội này được không khó.
Nếu không đúng pháp khó giác ngộ
Nhờ xa lìa tất cả văn tự
Không dùng âm thanh, hay hiểu rõ
Không từng nghe định, nên không biết
Bồ tát trí huệ đã hiểu rõ
Như Pháp Vương nói mà hay biết
Tịch diệt không hủy, hay đo lường
Chỉ vì cứu độ thế gian vậy
Dũng mãnh, tinh tấn hay Thiện trì
Kiên cố hộ niệm hằng không mất
Trí huệ dứt khổ và diệt trí
Phật vẫn nói Tam muội này chăng?
Diễn thuyết tất cả pháp không sanh
Cũng nói tất cả các hữu sanh
Chư phật Như Lai diệu trí huệ
Phật vẫn nói Tam muội này chăng?
Pháp này đồng tử đã hiển thị
Tám mươi ức ngàn na do tha
Ðược nhẫn âm thanh, Thắng Tùy Thuận
Không thối chuyển với Thắng Bồ đề
Vua Kiên Cố Lực bảo con rằng:
“Ðức Phật Thế Tôn nay vẫn còn”.
Vua hỏi đồng tử như thế này:
“Ngươi ở chỗ nào nghe pháp này?”
Con thưa: –Sát Lợi Vương lắng nghe:
–Con Từng thấy được mười ức Phật
Cứ trong mỗi kiếp đều cúng dường
Thưa hỏi đầy đủ tịch định này
Ðã qua trong chín mươi bốn kiếp
Thường được hiểu rõ trí túc mạng
Từ đó không sanh trong bào thai
Chính nhờ tu sức Tam muội này
Ở chỗ đức Phật hằng nghe pháp
Nghe rồi thâm tín mà tu tập
Con thường kiên cố tin như vầy
Chắc chứng Bồ đề quyết không nghi
Khi thọ trì, đọc tụng Tam muội
Nếu có người đến hỏi với con
Cho đến trong mộng, không nghi hoặc
Cần phải thành được đạo vô thượng
Con nhờ đó được không tham ái
Tự biết quyết định sẽ thành Phật
Cũng thường sanh ưa thích như vầy:
–Không biết khi nào được Bồ đề?
Vì học thọ trì Thắng Tam muội
Nếu có Tỳ kheo dạy cho con
Con sanh cung kính với người đó
Cũng như cung kính với chư Phật
Người kia dạy con một bài kệ
Khi tu hành thuận nhẫn Bồ tát
Lòng thành chiêm ngưỡng như thầy hay
Khiêm hạ cung kính mà cúng dường
Chỗ Tỳ kheo trung niên, già trẻ
Hổ thẹn thiên hạ sanh cung kính
Cung kính hiện tại được danh xưng
Phước đức đời sau tiếng tăng trưởng
Với chuyện tranh cãi không ưa thích
Lúc đó con an trụ thiểu sự
Hay biết ác nghiệp sanh ác đạo
Hay biết thiện nghiệp sanh thiện Như Lai đạo
Không nên nói pháp kẻ phóng dật
Với họ nghe toàn lời thô bỉ
Cũng tự suy tư nghiệp ác mình
Ðã tạo nghiệp rồi không hề mất
Lúc đó con không sân không mạn
Phật nói nhẫn lực siêng tu hành
Chư Phật luôn luôn khen sự nhẫn
Tu nhẫn để được đạo Bồ đề
Con vốn trì giới luôn thanh tịnh
Cũng khiến chúng sanh trụ tịnh giới
Luôn luôn tán thán giới tối thượng
Do sống tinh giới người tín thọ
Luôn luôn khen ngợi chỗ nhàn tịnh
Cũng tự an trụ trì tịnh giới
Khuyên người tu hành tám trai giới
Cũng lại dạy người học Bồ đề
Khuyên người tu tập tịnh phạm hành
Cũng lại dạy người trụ nghĩa pháp
Vì người hiển thị đạo Bồ đề
Sau khi mạng chung thấy nhiều Phật
Con nhớ khi ở kiếp quá khứ
Có Phật hiệu là Diệu Thanh Nhân
Ở trước đức Phật phát nguyên lớn
Hằng trụ sức nhẫn không lay động
Khi phát lời thề nặng như vậy
Trải qua tám ức bốn vạn năm
Khi ma hủy báng đến ma nhục
Tâm con như trước không biến động
Bấy giờ hàng phục ma quân xong
Biết con từ nhẫn sức kiên cố
Với tâm thanh tịnh lạy dưới chân
Năm trăm chúng phát tâm Bồ đề
Thời quá khứ con không keo kiết
Luôn luôn tán thán hạnh bố thí
Giàu lớn, của cải có tiếng tăm
Gặp thời đói kém làm thí chủ
Nếu có Tỳ kheo trì định này
Hoặc hay tu tập nói cho người
Liền tự cúng dường ngài mãi mãi
Nhờ có tâm này khiến thành Phật
Lúc đó con có nghiệp vô thượng
Thấy Phật Thế Tôn, nhân trung tôn
Ðời đời trường thọ giới cụ túc
Ðược làm Tỳ kheo nghe pháp sư
Con thường thích tu hạnh đầu đà
Cũng ở rừng không tịch lan nhã
Không vì ăn uống mà dối láo
Ðược một phần nhỏ thấy đầy đủ
Con có một thời không ganh ghét
Con thường không đắm trước cư gia
Không đắm trước nhà không ganh ghét
Ưa thích nhàn tịnh không thối lui
Lúc đó con luôn sống hạnh từ
Nếu bị chửi mắng không sân hận
Dùng tâm từ bi khéo điều phục
Vòng hoa danh tiếng khắp mười phương
Thường tập thiểu dục mà tri túc
Cũng thường khất thực không mệt mỏi
Thệ nguyện kiên cố không lay động
Tập hành tí tâm thường thanh tịnh
Ở chỗ Như Lai thêm niềm tin
Bởi nhờ tin Phật có thắng lợi
các căn không thuyết thường đoan chánh
Biết điều Phật nói thường thực hành
Thành tựu hạnh kiên cố như vậy
Hạnh kiên cố này có lợi gì?
Chư thiên cúng dường mừng khuyến thỉnh
Con đã nói công đức diễn thuyết
Thế gian thượng đức và đức khác
Nếu có người trí nên tu học
Vì người hành đạo cầu Bồ đề
Nay con hằng nhớ hạnh khó làm
Mà thuở xưa kia thường tu tập
Nếu nay diễn thuyết thời gian lâu
Cùng họ tương tùy đến chỗ Phật
Bồ tát thắng trí đạt lợi này
Ðạt được đầy đủ năm thần thông
Nhờ sức thần túc đến chỗ Phật
Cùng Phạm thiên vương cả ngàn vạn
Vua kiên cố lực tâm hoan hỷ
Cùng các quyên thuộc ức vạn chúng
Ðồng đi đến chỗ đức Như lai
Ðảnh lễ dưới chân đứng trước Phật
Khi Phật biết tâm vua hoan hỷ
Liền nói cho vua Tam muội này
Ðức vua nghe tam muội này xong
Vứt bỏ ngôi vua mà xuất gia
Vua đã xuất gia với định này
Thọ trì đọc tụng nói người khác
Mãi về sau hơn sáu mươi kiếp
Thành Phật hiệu là Liên Hoa Thượng
Vua có sáu trăm ức quyến thuộc
Ðồng lúc theo vua đến chỗ Phật
Họ nghe Thắng Tam muội như vậy
Hân hoan nhảy nhót cũng xuất gia
Họ xuất gia rồi với định này
Thọ trì đọc tụng nói người khác
Hơn sáu mươi na do tha kiếp
Ðồng trong một kiếp đều thành Phật
Hiệu: Phật Thiện Ðiều Phục Trí Thượng
Vô lượng người trời cùng cúng dường
Mỗi một đức Phật tiếng tăm lớn
Ðộ thoát chúng sanh hằng hà sa
Vua Kiên Cố Lực là thân ta
Tu hành hạnh Bồ đề thắng diệu
Thưởng xưa ta có năm trăm con
Bọn họ sau cùng làm hộ pháp
Ta ở như vậy ngàn ức kiếp
Dũng mãnh tinh tấn lìa giải đãi
Chuyên tâm cầu thắng Tam muội này
Chính vì vô thượng Bồ đề vậy
Ðồng tử! Nếu có các Bồ tát
Muốn đạt được như thắng định này
Tinh tấn dũng mãnh không tiếc mạng
Phải siêng tinh tấn học theo ta.