KINH
LĂNG GIÀ
LĂNG
GIÀ
A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp
Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang
Hán đời nhà Tống.
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
QUYỂN
BỐN
Khi
ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
-
Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng sát na hoại
của tất cả các pháp. Thế Tôn! Thế nào là tướng SÁT NA
của tất cả các pháp?
Phật
bảo Đại Huệ :
Hãy
chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
- Đại
Huệ! Nói TẤT CẢ PHÁP là những pháp thiện, bất thiện,
vô ký, hữu vi vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, vô
tội, hữu lậu vô lậu, thọ bất thọ v.v... Đại Huệ! Lược
thuyết tâm, ý, ý thức và tập khí, là nhân của năm thứ
thọ ấm, cũng là tập khí của tâm, ý, ý thức nuôi dưỡng
phàm phu sanh vọng tưởng thiện và bất thiện.
- Đại
Huệ! Người tu Tam muội, Tam muội chánh thọ, hiện pháp lạc
trụ, gọi là Thánh Hiền, thuộc về pháp thiện vô lậu. Đại
Huệ! Nói THIỆN, BẤT THIỆN có tám thứ thức. Thế nào là
tám? Ấy là Như Lai Tạng, gọi là thức tạng, tâm, ý, ý thức
và Tiền Ngũ Thức, chẳng phải như ngoại đạo sở thuyết.
- Đại
Huệ! Tiền ngũ thức và tâm, ý, ý thức đều hay phân biệt
cảnh trần, tướng thiện hay bất thiện; hễ tâm động thì
duyên khởi, duyên hội thì tâm sanh, lần lượt chuyển biến,
Tiền Ngũ Thức chuyển biến theo thức thứ sáu thì có phân
biệt thiện ác, chuyển biến theo thức thứ bảy thì có tánh
chấp trước, chuyển biến theo thức thứ tám thì có chủng
tử. Bảy thức trước tương tục thì có hoại, thức thứ
tám lưu chú thì chẳng hoại. Nhưng thức thứ tám cùng bảy
thức kia thể chẳng có khác, nên bảy thức kia sanh diệt thì
thức thứ tám cũng phải theo đó hoặc sanh hoặc diệt. Vì
chẳng biết cảnh trần do tự tâm hiện, vốn chưa từng sanh
diệt mà chúng sanh thấy cảnh giới hư vọng, sanh tưởng chấp
lấy, nên theo thứ lớp diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, thấy
hình tướng sai biệt là do ý thức nhiếp thọ, cùng Tiền
Ngũ Thức tương ưng, sanh thời gian sát na chẳng trụ, gọi
là Sát Na.
- Đại
Huệ! Nói SÁT NA là Tạng Thức trong Như Lai Tạng, đồng sanh
tập khí ý thức sát na, tập khí vô lậu thì chẳng phải
sát na, sát na này chẳng phải phàm phu có thể biết. Ngoại
đạo chấp trước sát na luận, chẳng biết tất cả pháp
sát na là phi sát na, chấp đoạn kiến phá hoại pháp Vô Vi.
Đại Huệ! Nhị Thừa đã dứt phiền não chướng nên thức
thứ bảy chẳng lưu chuyển, chẳng thọ khổ vui mà chẳng
phải cái nhân của Niết Bàn. Đại Huệ! Nói Như Lai Tạng
là có thọ sự khổ vui, cùng với nhân kia hoặc sanh hoặc
diệt, ngoại đạo say đắm rượu của Tứ Trụ Địa Vô Minh
(1), phàm phu chẳng biết là do vọng tưởng huân tập nơi tâm,
nên thấy có sát na.
(1)
TỨ TRỤ ĐỊA VÔ MINH : Dục ái, sắc ái, hữu ái và kiến
ái vô minh.
- Lại
nữa, Đại Huệ! Như vàng ròng, kim cương, Xá lợi của Phật
có tánh đặc biệt, trọn chẳng thể hoại. Đại Huệ! Người
chứng Tự Giác Thánh Trí, đắc chánh pháp Vô Gián chẳng có
tướng sát na sanh diệt. Nếu có sát na thì bậc Thánh chẳng
phải Thánh, mà bậc Thánh luôn luôn là Thánh, như vàng ròng
kim cương, dù trải qua vô số kiếp mà chất lượng chẳng
giảm. Bởi phàm phu chẳng khéo hiểu pháp thuyết vi diệu ẩn
mật của Ta, đối với tất cả pháp trong và ngoài tưởng
có sát na sanh diệt.
Khi
ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :
-
Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp,
do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát
được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng
chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn
cộng sanh.
Phật
bảo Đại Huệ :
- Tất
cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyên và nội
duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi
dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên,
sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát
chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện
sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.
- Thế
nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp
gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới,
nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn
chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt,
ấy gọi là pháp Nội Duyên.
- Đại
Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu
nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân,
Đối đãi nhân.
1.
Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay
hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả
tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu
Nhân.
2.
Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức
thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm
nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân
tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà
quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng,
nên gọi là Tương Tục Nhân.
3.
Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián
đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi
tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến
nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở
nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi
là Tướng Nhân.
4.
Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp
tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do
thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe
Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng.
Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng,
Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng
thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.
5.
Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng
năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng
v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.
6.
Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn
đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại
Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt
sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì
chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng
nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên
chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không
được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối
đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không
có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà
sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.
- Đại
Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân
của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm
hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại
tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai
thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến
chấp đó.
Khi
ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng
:
Tất
cả đều Vô sanh,
Cũng
không nhân duyên diệt.
Ở
nơi tướng sanh diệt,
Mà
khởi nhân duyên tưởng.
Pháp
diệt rồi lại sanh,
Do
nhân duyên tương tục.
Vì
đoạn dứt si mê,
Của
tất cả chúng sanh.
Nên
thuyết pháp duyên khởi,
Các
pháp thật Vô Sanh.
Do
tập khí mê hoặc,
Từ
đó hiện tam giới.
Duyên
thật vốn Vô Sanh,
Lại
cũng chẳng có diệt.
Tất
cả pháp hữu vi,
Như
hoa đốm trên không.
Nếu
lìa bỏ kiến chấp,
Năng
nhiếp và sở nhiếp.
Chẳng
có Vô nhân sanh,
Và
đã sanh, sẽ sanh.
Sự
sanh vốn chẳng có,
Thảy
chỉ là ngôn thuyết.