Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Tâm vô nhân

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 17701)
11. Tâm vô nhân

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương II: TÂM SỞ

Ahetuka Cittāni
Tâm vô nhân

19.

Ahetukesu pana hasanacitte tāva chanda vajjitā
ñasamānā dvādasa dhammāsaṅgahaṁ gacchanti.
Tathā votthapane chanda-pīti-vajjitā.
Sukhasantīraṇe chanda-viriya-vajjitā.
Manodhātuttikāhetukapaṭisandhiyugale chanda-pīti-viriya-vajjitā.
Dvipañ
caviññāṇe pakiṇṇakavajjitā te y'eva saṅgayhanti'- ti sabbathā'pi.
Aṭṭhārasasu ahetukesu gaṇanavasena catudhā va saṅgaho hotī'ti.

20.

Dvādasekādasa dasa satta cā'ti catubbidho
Aṭṭhārasāhetukesu cittuppādesu saṅgaho.
Ahetukesu sabbattha satta sesā yathārahaṁ
Iti vitthārato vuttā tettiṁsavidha saṅgaho.
Itthaṁ cittāviyuttānaṁ sampayogañ
ca saṅgahaṁ
Ñatvā
bhedaṁ yathāyogaṁ cittena samamuddise'ti.

§19

(i) Ðối với tâm sở Vô Nhân trong loại tâm làm vui cười [1], để khởi đầu, có mười hai tâm sở Aññasamānā, không có tánh cách thiện hay bất thiện phối hợp với nhau, ngoại trừ dục. (7 + 5 = 12)

(ii) Cùng thế ấy, trong tâm Xác Ðịnh [2], ngoại trừ dục và hỷ. (7 + 4 = 11)

(iii) Trong loại tâm Suy Ðạc [3], liên hợp với thọ hỷ, tất cả, ngoại trừ dục và tinh tấn. (7 + 4 = 11)

(iv) Trong bộ ba tâm Manodhātu [4] và cặp tâm nối liền [5] vô nhân, tất cả, ngoại trừ dục, hỷ và tinh tấn. (7+3= 10)

(v) Trong hai loại Ngũ Quan Thức [6] tất cả tâm sở phối hợp với nhau, ngoại trừ các tâm sở Riêng Biệt. (7)

Vậy, trong tất cả mười tám loại tâm Vô Nhân, các tâm sở, xét về lượng, hợp thành bốn nhóm.

§20

Mười hai, mười một, mười, bảy -- như vậy, đối với mười tám loại tâm Vô Nhân các tâm sở phối hợp với nhau bằng bốn phương cách.

Trong tất cả các tâm Vô Nhân, bảy Phổ Thông đều có hiện hữu. Các Riêng Biệt phát sanh tùy lúc. Vậy, xét vào chi tiết, những sự phối hợp được nói là có ba mươi ba phương cách [7] .

Ðã hiểu các sự phối hợp và tổ hợp của những tâm sở như vậy, ta hãy giải thích sự kết hợp của tâm sở với các loại tâm vương [8].

Ghi chú:

[1] Trong các loại tâm liên quan đến cười không có tâm sở Dục, hay "ý muốn làm". Xem Chương I, chú giải 26.

[2] Ðó là Manodvāravajjana, Ý Môn Hướng Tâm, được mang tên Votthapana - Xác Ðịnh Tâm.

[3] Mặc dầu Santīraṇa có nghĩa là dò xét, hay suy đạc, nó là một tâm Quả có tánh cách tiêu cực, thiếu cả hai: ý muốntinh tấn.

[4] Manodhātu, theo nghĩa từng chữ, là khả năng tri giác suông (Mananamatta' meva dhātu). Danh từ nầy bao gồm Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm) và hai Sampaṭicchanas (Tiếp Thọ Tâm). Mười loại Ngũ Quan Thức được gọi là dvipañca viññāṇadhātu. Bảy mươi sáu loại tâm còn lại được gọi là Manoviññāṇadhātu, các loại tâm nầy tri giác rõ ràngsâu rộng hơn những tâm trước.

Cả hai Sampaṭicchanas (Tiếp Thọ) đều liên hợp với Upekkhā, vốn không thể hiện hữu cùng với Pīti (Hỷ). Cũng như Santīrana (Suy Ðạc) hai tâm nầy là Quả và có tánh cách tiêu cực. Vì lẽ ấy không có ý muốntinh tấn. Trong Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm), cũng như trong Manodvārāvajjana (Ý Môn Hướng Tâm), không có Dục và Tấn.

[5] Hai Santīraṇa (Suy Ðạc) liên hợp với Upekkhā (Xả), Thiện và Bất Thiện Quả, được gọi là Ahetuka Paṭisandhi yugala (cặp tâm Nối Liền Vô Nhân). Tái sanh vào những cảnh khổ là do nơi Akusala Ahetuka Santīrana, và tái sanh vào cảnh người câm, điếc v.v... từ lúc mới sanh là do Kusala Ahetuka Santīraṇa. Cặp nầy cũng liên hợp với Upekkhā, Xả.

[6] Ðây cũng là những loại tâm Quả có tánh cách tiêu cực.

[7] Tức là:

i). 5 trong Anuttara (Vô Thượng);
ii). 5 trong Mahaggata (Cao Thượng);
iii). 12 trong Kāmāvacara (Dục Giới);
iv). 7 trong Akusala (Bất Thiện), và
v). 4 trong Ahetuka (Vô Nhân).
Tổng cộng là 33.

[8] Chương nầy giải thích trong loại tâm nào có tâm sở nào hiện hữu, và các loại tâm sở phát sanh trong mỗi loại tâm.

Trong đoạn kết luận chương nầy, tác giả khuyên người đọc cố gắng giải thích sự kết hợp của những tâm sở ấy trong mỗi loại tâm tương xứng. Thí dụ, Phổ Thông có tám mươi chín, vì các tâm sở Phổ Thông hiện diện trong tất cả những loại tâm. Phassa (Xúc) trong những Riêng Biệt có năm mươi lăm, vì phát sanh trong năm mươi lăm loại tâm v.v...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14771)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12769)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10352)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12071)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10547)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12481)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16435)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14320)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11797)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14815)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12038)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16862)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12741)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52164)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15475)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13974)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13189)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12792)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13227)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17922)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12459)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14435)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13828)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57996)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14512)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20153)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13797)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15413)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17501)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13323)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11939)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13496)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12497)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12159)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12071)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13296)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12548)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13670)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13333)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25612)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12183)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14563)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11868)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42083)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38821)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14730)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12708)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant