Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Tóm lược về Thọ

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 17173)
1. Tóm lược về Thọ

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương III

PAKI.N.NAKA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
PHẦN LINH TINH

1.

Sampayuttā yathāyogaṁ -- te paṇṇāsa sabbāvato
Cittacetasikā dhammā -- tesaṁ'dāni yathārahaṁ.
Vedanā hetuto kicca -- dvārālambanavatthuto
Cittuppādavasen'eva -- saṅgaho nāma nīyate.

§1

Có năm mươi ba tâm vương (1) và tâm sở phối hợp với nhau và phát sanh tùy lúc tùy theo đặc tính.

Bây giờ, xem tâm (2) như một đơn vị nguyên vẹn, các tâm vươngtâm sở phối hợp nầy được đề cập đến một cách thích ứng, tùy theo thọ, nhân, tác dụng, môn, đối tượng và trú căn.

Chú Giải

1.

Tất cả tám mươi chín loại tâm vương được xem như một đơn vị nguyên thuần vì lẽ tất cả đều có chung một đặc tính là hay biết đối tượng. Năm mươi hai tâm sở thì được đề cập đến một cách riêng rẽ vì mỗi tâm sở có một đặc tính riêng biệt. (1+52 = 53).

2. Cittuppāda

theo nghĩa đen, là điểm xuất phát, hay khởi nguyên của tâm. Ở đây danh từ nầy có nghĩa là chính cái tâm (cittam'eva cittuppādo). Trong các trường hợp khác cittuppāda bao gồm chung tâm sở cùng với tâm vương (aññattha pana dhammasamūho)

-ooOoo-

I. Vedanā-Saṅgaho
Tóm lược về Thọ

2. Tattha vedanāsaṅgahe tāva tividha vedanā:-- sukhaṁ, dukkhaṁ, adukkhamasukhaṁ' ti. Sukhaṁ, dukkhaṁ, somanassaṁ, domanassaṁ, upekkhā'ti ca bhedena pana pañcadhā hoti.

3. Tattha sukhasahagataṁ kusalavipākaṁ kāya- viññāṇaṁ ekam'eva.

4. Tathā dukkhasahagataṁ akusalavipākaṁ kāya- viññāṇaṁ.

5. Somanassa-sahagata-cittāni pana lobhamūlāni cattāri, dvādasa kāmāvacarasobhanāni, sukha- santīraṇa-hasanāni ca dve'ti aṭṭhārasa kāmāvacara cittāni c'eva, paṭhama-dutiya-tatiya-catutthajjhāna-saṅkhātānicatucattālīsa
Mahaggata-Lokuttara- cittāni c'āti dvāsaṭṭhividhāni bhavanti.

6. Domanassa-sahagata cittāni pana dve paṭigha- cittān'eva.

7. Sesāni sabbāni'pi pañcapaṇṇāsa upekkhāsahagata-cittān'evā'ti.

8. Sukhaṁ dukkham-upekkhā'ti tividhā tattha vedanā

Somanassaṁ domanassam iti bhedena pañcadhā. Sukham'ek'attha dukkhañ ca domanassaṁ dvaye ṭhitaṁ
Dvāsaṭṭhisu somanassaṁ pañcapaṇṇāsaketarā.

§2. Trong tóm lược về thọ (3) trước tiên, có ba loại thọ là: lạc (4), khổ, và không-lạc-không-khổ. Hoặc nữa, có năm loại là: hỷ, ưu, lạc, khổ và xả, hay tâm quân bình.

§3. Trong những tâm nầy chỉ có loại tâm quả thiện thân thức là liên hợp với thọ lạc.

§4. Cùng thế ấy, chỉ có tâm quả bất thiện thân thức là liên hợp với thọ khổ.

§5. Có sáu mươi hai loại tâm đồng phát sanh cùng thọ hỷ (5) - đó là:

a. Mười tám loại tâm thuộc Dục Giới, như bốn bắt nguồn từ căn tham, mười hai tâm Ðẹp thuộc Dục giới, và hai loại, tâm suy đạc và tiếu sanh tâm (tâm làm mĩm cười).

b. Bốn mươi bốn loại (6) tâm Cao Thượng (Ðại Hành) và Siêu Thế, liên quan đến sơ, nhị, tam và tứ Thiền. (12 + 32 = 44).

§6. Chỉ có hai loại tâm liên hợp với sân và đồng phát sanh cùng thọ ưu (7).

§7. Tất cả năm mươi lăm loại tâm còn lại đồng phát sanh cùng thọ xả (8).

§8. Nơi đây, thọ có ba là lạc, khổ, và xả. Cùng với hỷ và ưu là năm.

Lạc và khổ nằm trong một, ưu trong hai, hỷ trong sáu mươi hai, và còn lại (xả) nằm trong năm mươi lăm.

Chú Giải

3. Vedanā, Thọ

là một tâm sở quan trọng nằm trong tất cả các loại tâm. Ðặc tính của thọ là cảm giác (vedayita-lakkhana). Thọ phát sanh do xúc tạo duyên. Như vậy, chuyển ngữ danh từ nầy là cảm kích thì không mấy thích hợp.

Cảm giác được định nghĩa là "một cảm tưởng có sự hay biết, không bao gồm sự nhận diện hay hình dung đối tượng". Cảm kích được giải thích là "những thành phần của trực giác liên quan đến giác quan hay là, phương cách theo đó một chủ thể có ý thức bị biến đổi bởi sự hiện diện của đối tượng." [1]

Như vậy cảm giác gần với vedanā hơn là sự cảm kích. Vedanā (thọ) biến đổi luồng tâm và tác hành như một năng lực nâng đỡtiêu diệt đời sống. Như thọ hỷ thì nâng đỡ đời sống, còn thọ ưu thì gây trở ngại. Do đó vedanā, thọ, có một vai trò rất quan trọng trong kiếp sinh tồn của một người.

Kinh nghiệm mùi vị của một vật là tác dụng của vedanā (anubhavana rasa). Những sự ưa thích hay ghét bỏ tùy thuộc nơi tánh cách đáng ưa thích hay đáng ghét bỏ của ngoại cảnh. Thế thường, ưa hay ghét phát sanh một cách máy móc, tự động.

Tuy nhiên đôi khi, bằng cách vận dụng ý chí, ta có thể quyết định loại thọ mà không bị đối tượng chi phối. Thí dụ như thông thường, khi nhận thấy một người thù nghịch thì ta không vui, có thọ ưu, và trạng thái không vui hay thọ ưu ấy khởi sanh đến ta một cách tự nhiên, máy móc. Nhưng một người có tri kiến chân chánh, trong trường hợp tương tợ sẽ rải tâm Từ (Mettā) đến người được xem là thù nghịch ấy và do đó, chứng nghiệm một loại thọ hỷ. Như Socrates chẳng hạn, uống chén thuốc độc với tâm hoan hỷđối diện cái chết một cách vui vẻ. Một lần nọ có người bà la môn kia tuôn ra một tràng những lời chưởi mắng Ðức Phật nhưng Ngài vẫn giữ thái độ mĩm cười và đáp lại bằng tâm Từ. Ðạo sĩ Khantivādi bị một ông vua say rượu ngược đãi tàn tệ, vẫn thành thật ước mong cho ông vua hung bạo kia được sống lâu, thay vì nguyền rủa vua.

Một người khác đạo cuồng tín có thể chứa chấp tâm bất mãn khi thấy Ðức Phật. Cái thọ của người ấy lúc bấy giờ là ưu, không vui. Cùng thế ấy, khi thấy đạo sư của một tôn giáo khác người Phật tử cuồng nhiệt có thể cảm nghe không vui trong lòng. Cái gì là chất ăn thức uống cho một người có thể là độc dược cho người khác.

Như khoái lạc vật chất chẳng hạn, thường được người ở hạng trung bình đánh giá rất cao. Nhưng một đạo sĩ ẩn dật hiểu biết, người có khuynh hướng trau giồi và phát triển thiền tập, sẽ cảm nghe hạnh phúc hơn khi từ khước khoái lạc vật chất ấy, và tình nguyện sống đời nghèo nàn thiếu thốn trong cảnh vắng vẻ an tĩnh. Người thiên về dục lạc sẽ thấy sống như thế không khác nào ở cảnh địa ngục. Ðúng vậy, cái gì là thiên đàng của một người có thể là địa ngục cho người khác. Cái gì là địa ngục cho một người có thể là thiên đàng cho người khác. Thiên đàng hay địa ngục đều do chính ta tạo nên, và ít hay nhiều, chính do tâm tạo.

"Nầy chư Tỳ Khưu, có hai loại thọ: lạc và khổ." Ðức Phật dạy như vậy. Ðúng. Rồi bây giờ tại sao ta lại nói có loại thứ ba là thọ xả, không lạc cũng không khổ? Bản chú giải ghi nhận rằng loại thọ xả không đáng bị khiển trách được bao hàm trong thọ lạc, và loại đáng bị khiển trách được bao hàm trong thọ khổ. Lại nữa, Ðức Phật dạy rằng bất luận loại cảm giác nào mà ta kinh nghiệm trên thế gian nầy đều là thọ khổ. Ðó là do bản chất luôn luôn biến đổi của tất cả các pháp hữu vi. Ðứng trên phương diện khác, nếu xét về tất cả những hình thức của thọ như thuần túy tinh thần thì chỉ có ba loại là hỷ (sukha), ưu (dukkha), và xả (adukkhamasukha).

Sách Athasālini giải thích như sau:--

Danh từ sukha có nghĩa "cảm giác thích thú"(sukha vedanā), "căn nguyên của hạnh phúc"(sukha-mūla), "đối tượng vui thích" (sukhārammaṇa), "nguyên nhân của hạnh phúc" (sukha hetu), "tạo duyên cho hạnh phúc khởi phát" (sukhapaccayaṭṭhāna), "thoát khỏi phiền não" (abyāpajjhā), Niết Bàn", v.v...

Trong từ ngữ "bằng cách loại trừ sukha", danh từ sukha có nghĩa là cảm giác thích thú.

Trong lời nói "sukha là dứt bỏ, không luyến ái gì trong thế gian nầy", danh từ sukha là căn nguyên của hạnh phúc. Trong câu "Bởi vì, nầy Mahāli, hình sắc là sukha, là rơi vào và đi xuống sukha". Ở đây sukha là đối tượng của sự thích thú.

"Phước báu, nầy chư Tỳ Khưu, là đồng nghĩa với sukha", trong câu nầy, sukha là nguyên nhân của thích thú.

"Nầy chư Tỳ Khưu, không phải dễ gì thành đạt sukha của cảnh trời bằng cách mô tả." Những ai không thấy Nandana ắt không hiểu biết sukha". Ở đây sukha có nghĩa là tạo duyên cho trạng thái thích thú khởi sanh.

"Những trạng thái ấy hợp thành cuộc sống sukha trong chính thế gian nầy". Ở đây, sukha là không phiền não.

"Niết Bàn là sukha tối thượng". Ở đây, sukha là Niết Bàn.

Theo những đoạn được trích dẫn trên người đọc có thể hiểu các ý nghĩa khác nhau của danh từ sukha. Riêng ở trường hợp của chương nầy danh từ sukha được dùng trong nghĩa cảm giác thích thú thuộc về vật chất, thọ lạc.

Niết Bàn được ghi nhậnhạnh phúc (sukha) tối thượng. Nói vậy không có nghĩa là có cảm giác thích thúNiết Bàn, mặc dầu danh từ sukha đã được dùng. Niết Bànhạnh phúc giải thoát. Chính sự kiện thoát ra khỏi đau khổNiết Bàn.

Danh từ dukkha có nghĩa là "cảm giác đau đớn, thọ khổ", "căn trú của sự đau đớn", "đối tượng đau đớn", "nguyên nhân của sự đau đớn", "tình trạng tạo duyên cho sự đau đớn phát sanh".

"Bằng cách loại trừ dukkha" -- ở đây dukkha là cảm giác đau đớn.

"Bởi vì, nầy Mahāli, hình sắc là dukkha, là rơi vào và đi xuống đau đớn". Ở đây dukkha là đối tượng của sự đau đớn.

"Tích tụ điều bất thiện là dukkha". Ở đây dukkha là nguyên nhân của đau khổ.

"Nầy chư Tỳ Khưu, không phải dễ gì nghe mô tả những cảnh khổ mà nhận thức được dukkha". Dukkha ở đây là "hoàn cảnh tạo duyên cho trạng thái đau khổ phát sanh".

Trong trường hợp đặc biệt của chương nầy, danh từ dukkha được dùng theo nghĩa cảm giác đau đớn, sự đau khổ thuộc về vật chất, thọ khổ.

Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân Dhammacakka Sutta, Ðức Phật kể ra tám loại dukkha, khổ, đó là:

1. Sanh là khổ,
2. già yếu là khổ,
3. bệnh hoạn là khổ,
4. chết là khổ,
5. sống chung với người mình không ưa thích là khổ,
6. xa lìa người thân yêu là khổ,
7. không đạt được điều mong mỏi là khổ,
8. tóm tắt, Ngũ Uẩn là khổ.

Tất cả những điều trên là nguyên nhân của dukkha.

Khi Ðức Phật ngỏ lời cùng chư Thiênnhân loại, Ngài đề cập đến tám loại dukkha. Khi chỉ nói riêng cho người, Ngài nhắc đến mười hai loại. Thay vì vyādhi (bệnh), Ngài nói soka (phiền muộn), parideva (ta thán), dukkha (đau đớn), domanassa (âu sầu), upāyāsa (thất vọng), là đau khổ. Tất cả năm điều nầy đều được bao gồm trong danh từ vyādhi (bệnh) và hàm xúc trạng thái bất điều hòa, vật chấttinh thần.

Soka, domanassa, và upāyāsa (phiền muộn, âu sầu, và thất vọng) thuộc về tinh thần. Dukkha và parideva (đau đớn, ta thán) thuộc về vật chất.

Dầu tám hay mười hai loại dukkha, trong thực tế không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai công thức.

Adukkha-masukha cảm giác không thích thú cũng không đau đớn. Ðây là thọ xả. Trạng thái nầy tương đương với cả hai, sự thản nhiên lãnh đạm, và sự thản nhiên khắc kỷ. Danh từ Pāli, upekkhā (xả), bao hàm một ý nghĩa rộng rãi hơn, được dùng thường hơn danh từ nầy để chỉ cảm giác không vui không buồn.

Trong một loại tâm bất thiện, upekkhā (xả) là thản nhiên, lãnh đạm, bởi vì đó là trường hợp của một loại tâm do vô minh xúi giục. Trong một loại tâm quả vô nhân (ahetuka-vipāka), như một cảm giác chẳng hạn, upekkhā chỉ giản dị là một cảm giác xả, không có giá trị đạo đức, không có tánh cách thiện hay bất thiện. Danh từ adukkha-m-asukha, không đau đớn cũng không thỏa thích, chỉ áp dụng vào trường hợp nầy. Upekkhā tiềm tàng ngủ ngầm trong một loại tâm Ðẹp thuộc Dục Giới (Kamāvacara Sobhana Citta), có thể là một trong những trạng thái sau đây: sự thản nhiên suông (không có tánh cách lãnh đạm vì không có vô minh), cảm giác xả suông, cảm giác vô tư, không thiên vị hay nghiêng ngã về bên nào, sự thản nhiên khắc kỷ, và hoàn toàn quân bình.

Trong tâm Thiền (Jhāna), upekkhā là trạng thái quân bình hoàn toàn, tâm xả, phát sanh do định. Tâm xả nầy có cả hai tánh cách, đạo đứctrí thức. (Xem chương I, chú giải 42).

Theo một lối phân hạng rộng rãi hơn, Vedanā được chia làm năm loại là:

a. Sukha -- cảm giác thích thú thuộc về vật chất, lạc.
b. Somanassa -- hoan hỷ thỏa thích thuộc tinh thần, hỷ.
c. Dukkha -- đau đớn thuộc thể chất, khổ.
d. Domanassa -- ưu phiền, thuộc tinh thần, ưu.
e. Upekkhā -- thản nhiên, quân bình, xả.

Ðến mức cùng tột, tất cả những cảm giác đều thuộc về tinh thần, bởi vì thọ là một tâm sở. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa sukha và dukkha.

Trong 89 loại tâm chỉ có hai liên hợp hoặc với sukha hoặc với dukkha. Trong hai loại tâm ấy, một là thân thức liên hợp với thọ lạc, và loại kia là thân thức liên hợp với thọ khổ.

Cả hai loại tâm nầy đều là tâm quả, hậu quả của nghiệp thiện (kusala kamma) và nghiệp bất thiện (akusala kamma). Thí dụ như sự xúc chạm êm dịu đem lại thọ lạc. Ðụng mạnh vào mũi nhọn đem lại thọ khổ. Ðây là hai trường hợp trong đó ta kinh nghiệm hai loại thọ kể trên.

Bây giờ, một câu hỏi có thể được nêu lên.

-- Tại sao chỉ có thân thức liên hợp với thọ lạc và thọ khổ? Trong những thức khác như nhãn thức, nhĩ thức v.v... tại sao chỉ có thọ xả?

Trong phần mở đầu quyển Triết Học Khái Luận, Ông Aung cung cấp lời giải đáp như sau:

"Chỉ có xúc giác (thân thức) mới đem lại những cảm giác đau đớn hay thích thú tích cực. Những giác quan kia chỉ liên hợp với thọ xả. Sự xúc chạm giữa mặt nhạy (pasāda rūpa) của những giác quan khác và các đối tượng tương ứng -- cả hai đều là tánh chất phụ thuộc của thân -- không đủ mạnh để tạo nên cảm giác đau đớn hay thích thú về vật chất. Nhưng trong trường hợp của xúc giác thì có sự xúc chạm của một phần hay của tất cả những tánh chất căn bản -- thành phầnđặc tính duỗi ra, cứng hay mềm (paṭhavi, đất), thành phầnđặc tính nóng hay lạnh (tejo, lửa), thành phầnđặc tính di động (vāyo, gió) -- sự xúc chạm nầy đủ mạnh để gây cảm kích cho những tánh chất căn bản của thân. Cũng như đặt bông gòn trên hòn đe thì không có gì, nhưng cái búa đập bông gòn trên hòn đe sẽ có ảnh hưởng nhiều đến hòn đe." -- (Compendium of Philosophy, trang 14)

Trong trường hợp của xúc giác thì có sự tiếp chạm mạnh. 'Các thành phần chánh yếu của vật chất', Tứ Ðại [2] của đối tượng trực tiếp chạm mạnh vào những thành phần tương ứng của cơ thể. Trường hợp các thức khác như nhãn thức, nhĩ thức v.v... chỉ có sự tiếp xúc suông mà không có sự xúc chạm đủ mạnh, do đó không tạo cảm giác đau đớn hay thích thú về vật chất.

Mặc dầu thọ phát sanh do xúc có thể là sukha, dukkha, hay upekkhā, tiến trình javana không nhất thiết phải liên hợp với một loại thọ giống như vậy.

Thí dụ như khi Ðức Phật bị một mảnh đá bay trúng vào chân thì Ngài nghe đau, trạng thái đau đớn thuộc về cơ thể vật chất, nhưng tiến trình javana phát sanh do cảm giác đau không nhất thiết đồng phát sanh cùng thọ khổ. Ngài không bị cái đau làm chao động mà trong lúc ấy giữ tâm hoàn toàn bình thản. Cảm giác nổi bật mạnh mẽ nhất trong tâm Ngài là xả, upekkhā. Cùng thế ấy, khi nhìn thấy Ðức Phật, một người hiểu biết chân chánh tự nhiên có một loại nhãn thức liên hợp với thọ xả (upekkhāsahagata cakkhu- viññāṇa), nhưng luồng javana vẫn là thiện. Thọ đồng thời phát sanh với javana sẽ là somanassa (hỷ).

Ðiểm phức tạp nầy phải được hiểu biết rõ ràng.

Somanassa (trạng thái tâm tốt -- thọ hỷ) và Domanassa (trạng thái tâm không tốt -- thọ ưu} thuần túy thuộc về tinh thần. Năm loại thọ nầy có thể được thâu gọn lại thành ba, ba còn hai, và hai còn một, như sau:

i) Sukha + somanassa; upekkhā; dukkha + domanassa
ii) Sukha; upekkhā; dukkha
iii) Sukha; dukkha
iv) Dukkha

(Upekkhā bị chìm mất trong sukha, và cuối cùng sukha bị chìm mất trong dukkha).

4. Sukha, Thích Thú

Sukha, trạng thái thích thú về vật chất, phải được phân biệt rõ ràng với somanassa, sự hoan hỷ thỏa thích về tinh thần. Cũng như dukkha, đau đớn về vật chất, phải được phân biệt rõ ràng với domanassa, trạng thái ưu phiền, thuộc tinh thần. Chỉ có một loại tâm liên hợp với sukha. Cùng thế ấy, chỉ có một loại tâm đồng thời phát sanh cùng dukkha. Cả hai loại tâm nầy đều là quả của những hành động tốt và xấu.

Thí dụ như khi Ðức Phật bị Tỳ Khưu Devadatta gây thương tích, Ngài có một loại thân thức liên hợp với thọ khổ. Ðó là hậu quả của một hành động bất thiện của Ngài trong quá khứ.

Khi ngồi trên một cái ghế có đầy đủ tiện nghi, chúng ta có một loại thân thức liên hợp với thọ hỷ. Ðó là hậu quả của một hành động tốt trong quá khứ. Tất cả những hình thức đau đớn hay thỏa thích đều là hậu quả không thể tránh của nghiệp đã tạo.

5.- 6. Người đọc sẽ ghi nhận rằng tâm phát sanh cùng thọ hỷ nhiều hơn tất cả các loại tâm khác. Như vậy, trong kiếp sống của một người, có nhiều lúc thỏa thích hơn là đau khổ. Ðiều nầy không mâu thuẩn với lời dạy rằng đời sốngđau khổ (dukkha). Khi nói rằng đời sống là dukkha, đau khổ, danh từ dukkha không được dùng theo nghĩa thọ khổ, mà dukkha có nghĩa là áp bức, trở ngại (pīḷana, bất toại nguyện). Người đã đọc một cách thận trọng đoạn mô tả dukkha trong kinh Dhammacakka Sutta (Chuyển Pháp Luân) sẽ thấy rõ điều nầy.

6. Ðó là bốn loại tâm Thiền Thiện (Kusala Jhāna), bốn tâm Thiền Quả (Vipāka Jhāna), bốn tâm Thiền Hành (Kriyā Jhāna) và ba mươi hai tâm Thiền Siêu Thế (Lokuttara Jhāna). (4 + 4 + 4 + 32 = 44).

7. Chỉ có thọ ưu trong hai loại tâm liên quan đến sân (paṭigha). Khi nổi giận chúng ta cảm nghe không vui, thọ ưu. Có phải nơi nào có thọ ưu là có sân không? -- Phải. Sân dưới hình thức thô kịch hay vi tế. (Xem chương I, chú giải 10)

8. Ðó là 6 Bất Thiện (Akusala), 14 Vô Nhân (Ahetuka), 12 Ðẹp (Sobhana), 3 Thiền Sắc Giới (Rūpa Jhāna), 12 Thiền Vô Sắc (Arūpa Jhāna), 8 Siêu Thế (Lokuttara). (6 + 14 + 12 + 3 + 12 + 8 = 55).

Ghi chú:

[1] Dictionary of Philosophy, trang 108.

[2] tức paṭhavi, tejo, vāyo (thành phầnđặc tính duỗi ra và chiếm không gian, thành phầnđặc tính nóng hay lạnh, và thành phầnđặc tính di động). Āpo, nước, thành phầnđặc tính làm dính liền, không có kể ở đây, vì không thể dùng giác quan để tri giác thành phần nầy được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29880)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27160)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21761)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23600)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20415)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18982)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24730)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30968)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27757)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23208)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38116)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19948)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23138)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23865)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22783)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22902)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29559)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15842)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18842)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19643)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20145)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19947)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34158)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39221)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26045)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20092)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18842)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24048)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29104)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22898)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30937)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26846)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20663)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26244)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23317)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24666)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30018)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20212)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15136)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23865)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant