Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tiến trình tâm Appanā

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15948)
4. Tiến trình tâm Appanā

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

CHƯƠNG IV

VĪTHI-SAṄGAHA VIBHĀGO
Phân tách Tiến trình tâm

-ooOoo-

Appanā-vīthicittappavattinayo
Tiến trình tâm APPANĀ

7.

Appanājavanavāre pana vibhūtāvibhūtabhedo natthi. Tathā tadālambanuppādo ca.

Tattha hi ñāṇasampayuttakāmāvacarajavanānaṁ aṭṭhannaṁ aññatarasmiṁ parikammupacārānuloma- gotrabhū nāmena catukkhattum tikkhattum' eva vā yathākkamaṁ uppajjitvā niruddhe tadanantaram' eva yathārahaṁ catutthaṁ pañcamaṁ vā chabbīsati mahaggatalokuttarajavanesu yathābhinīhāravasena yaṁ kiñci javanaṁ appanāvīthimotarati. Tato paraṁ appanāvasāne bhavaṅgapāto'va hoti.

Tattha somanassasahagatajavanān'antaraṁ appanā' pi somanassasahagatā'va pāṭikaṇkhitabbā. Upekkhā- sahagatajavanānantaraṁ upekkhāsahagatā'va. Tatthā' pi kusalajavanānantaraṁ kusalajavanañ c'eva heṭṭhimañcaphalattayamappeti. Kriyājavanā- nantaraṁ kriyā javanaṁ arahattaphalañ ca appeti.

8.

Dvattiṁsa sukhapuññamhā dvādasopekkhakāparaṁ Sukhitakriyato aṭṭha cha sambhonti upekkhakā.

Puthujjanāna sekkhānaṁ kāmapuññā tihe tuto

Tihetukāmakriyato vitarāgānaṁ appanā.

Ayam' ettha manodvāre vīthi-cittappavattinayo.

§7

Trong phương cách diễn tiến của javana Appanā (tuyệt đối an trụ) (5) không có sự phân biệt giữa "sáng" và "tối". Cùng thế ấy không có tâm quả đăng ký.

Trong trường hợp nầy, bất luận tâm nào trong tám javanas thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến, khởi sanh, theo thứ tự, ba hoặc bốn lần, như chặp tâm "chuẩn bị" (parikamma), "cận hành" (upacāra), "thuận thứ" (anuloma), và "chuyển tánh" (gotrabhū). Tức khắc sau khi những chặp tâm nầy chấm dứt, trong chặp thứ tư hay thứ năm, tùy trường hợp, bất luận tâm javana nào trong 26 loại tâm Cao Thượng và Siêu Thế nhập vào tiến trình Thiền, tùy hợp theo sự cố gắng thích ứng.

Ở đây, tức khắc theo sau một javana với thọ hỷ, một javana appanā với thọ hỷ ắt sẽ khởi phát. Sau một javana đồng phát sanh với thọ xả, một javana appanā liên hợp với thọ xả ắt phát sanh.

Ở đây cũng vậy, một javana appanā thiện sẽ nối tiếp theo sau một javana thiện và (trong trường hợp chứng ngộ -- samāpatti), sẽ tạo duyên cho ba Quả thấp hơn khởi phát.

Sau một javana hành, sẽ có một javana hành và Quả A La Hán nối tiếp.

§8

Sau tâm thiện (có ba nhân, tihetuka) (6) liên hợp với thọ hỷ (7), 32 (loại tâm) (8) khởi phát; sau tâm thiện (có ba nhân) liên hợp với thọ xả, 12 loại (9); sau tâm hành (có ba nhân) liên hợp với thọ hỷ, 8 loại (10); và sau tâm hành (có ba nhân) liên hợp với thọ xả, có sáu loại tâm (11).

Ðối với hạng phàm nhân [1] và hạng "còn phải tu tập" (sekha) [2] tâm Quả appanā (phát khởi) sau tâm thiện có ba nhân thuộc Dục Giới, nhưng đối với những vị "không còn tham ái" [3] là sau tâm hành thuộc Dục Giới.

Ðây là phương cách diễn tiến của tiến trình tâm phát sanh qua ý môn.

Ghi chú:

[1] Phàm nhân, puthujāna, là những chúng sanh còn ở trong vòng luân hồi, tức chúng sanh trong Tam Giới: Dục, Sắc và Vô Sắc Giới.

[2] Sekhas là những vị đã đắc một trong ba tầng Thánh đầu tiên, và "còn phải tu tập" nữa để thành tựu tầng Thánh cuối cùng. Có nơi gọi là bậc "hữu học". Xem chương III.

[3] "Những vị không còn tham ái", tức chư vị A La Hán, cũng được gọi là asekhas, không còn phải tu tập nữa. Có nơi gọi là bậc "vô học".

Chú Giải

5. Appanā, Hoàn Toàn An Trụ.

(Saṁskrit -- arpaṇā, xuất nguyên từ căn "ri" là đi).

Ðây là một danh từ ít thấy dùng trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Phạn ngữ nầy xuất nguyên từ căn "i", đi.

Căn "I" + tiếp đầu ngữ có nghĩa là nguyên nhân "āpe" + "ana". "A" thay thế "i" và "p" trở thành "pp"; "A"+ ppe + ana = appanā. Chữ "ā" trong hình thức sơ khởi trở thành "a" trước cặp "pp".

Ngài Buddhaghosa định nghĩa "appanā" là hướng về, hay gắn liền, áp đặt tâm nhất điểm vào đối tượng (ekaggaṁ cittaṁ ārammaṇe appenti).

Appanā là một hình thức của chi Thiền tầm (vitakka), một chi của Sơ Thiền, phát triển đến mức cao độ.

Người hành thiền muốn phát triển Thiền chọn lấy một đề mục thích ứng, tùy hợp theo tâm tánh mình. Trong khi gia công hành thiền, như đã ghi trong chương I, hành giả đạt đến mức độ có thể chứng đắc Sơ Thiền.

Lúc ấy tiến trình tâm trôi chảy như sau:

Manodvārāvajjana
Ý Môn Hướng Tâm

Parikamma
Chuẩn Bị

Upacāra
Cận Hành

Anuloma
Thuận Thứ

Gotrabhū
Chuyển Tánh

Appanā
An Trụ

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

Chặp tư tưởng đầu tiên là ý môn hướng tâm, khởi phát liền trước giai đoạn javana, do các đối tượng nhập vào dòng tâm xuyên qua ý môn, tạo duyên để khởi phát.

Chặp tư tưởng (sát-na) sơ khởi của tiến trình javana appanā được gọi là parikamma (chuẩn bị), bởi vì nó là sự chuẩn bị để đưa đến tâm cao thượng hơn mà hành giả hằng mong mỏi, hoặc Cao Thượng (Mahaggata, Ðại Hành), hoặc Siêu Thế (Lokuttara). Liền tiếp theo sau chặp nầy là một chặp khác được gọi là upacāra (cận hành), bởi vì nó khởi phát kế cận loại tâm cao thượng. Thông thường hai chặp tâm nầy phát sanh đầu tiên trong tiến trình javana-appanā. Nhưng nhiều hành giả là người có một trình độ đạo đức khá cao thì chỉ có chặp upacāra (cận hành) khởi phát mà không có chặp parikamma (chuẩn bị) sơ khởi.

Chặp tư tưởng thứ ba trong tiến trình nầy được gọi là anuloma (thuận thứ), bởi vì nó khởi phát điều hòa và thuận chiều theo các chặp trước và chặp Gotrabhū (chuyển tánh) theo sau. Gotrabhū, theo nghĩa đen, là cái gì chế ngự dòng dõi Dục Giới [1], hay cái gì phát triển dòng giống cao thượng. Liền sau chặp Gotrabhū nầy, chặp Appanā-jhāna (sát-na tâm tuyệt đối an trụ) phát sanh. Ðến mức độ tâm cao thượng nầy, tâm tuyệt đối gom vào một điểm duy nhất.

Tâm Thiền (jhāna) mà không được phát triển trọn vẹn khởi hiện trong những chặp tâm đầu tiên được gọi là upacāra samādhi, cận định.

Ðối với hạng phàm nhân (puthujjana, chưa đắc Thánh Quả) và những bậc Thánh "còn phải tu tập nữa" (sekhas), bốn javanas thiện thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến phát sanh như những chặp appanā sơ khởi nầy. Trong trường hợp một vị A La Hán, đó là bốn javanas hành thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến.

Tiến trình appanā-javana Siêu Thế trôi chảy như sau:

1

2

3

4

5

6

7

Parikamma
Chuẩn Bị

Upacāra
Cận Hành

Anuloma
Thuận Thứ

Gotrabhū
Chuyển Tánh

Magga
Đạo

Phala
Quả

Phala
Quả

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

Trong tiến trình tâm nầy chặp parikamma (chuẩn bị) có thể phát sanh hay không phát sanh. Như đã ghi nhận ở trên, điều nầy tùy thuộc nơi trình độ tiến hóa tinh thần của người hành thiền. Ở đây Gotrabhū có nghĩa là cái gì khắc phục huyết thống phàm tục, hay cái gì phát triển dòng dõi Siêu Thế.

Một trong bốn javanas thiện thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến phát sanh trong giai đoạn sơ khởi nầy. Ðối tượng của ba chặp tư tưởng đầu tiên [2] là tại thế, nhưng đối tượng của chặp gotrabhū (chuyển tánh) là Niết Bàn siêu thế. Dầu sao, chặp tư tưởng đã được phát triển nầy không thể tận diệt những ô nhiễm cố hữu tiềm tàng. Chính chặp tâm Magga (Ðạo), theo kế liền sau đó, tác hành nhiệm vụ chứng ngộ Niết Bàn và tận diệt ô nhiễm. Phải nên ghi nhận rằng chặp tâm Magga (Ðạo) chỉ phát sanh một lần duy nhất. Tức khắc liền sau đó là hai chặp Phalas (Quả), nếu tiến trình có parikamma (chuẩn bị). Nếu là một tiến trình không có parikamma, như đã ghi trên, thì có ba chặp Quả (Phalas). Trong trường hợp các tầng Thánh thứ nhì, thứ ba, và thứ tư, chặp tư tưởng thứ ba, thay vì là gotrabhū (chuyển tánh), thì được gọi là vodāna, có nghĩa là thanh lọc.

Nếu tiến trình bắt đầu bằng chặp parikamma, thì vodāna là chặp thứ tư. Nếu không có chặp parikamma thì vodāna là chặp thứ ba.

Mỗi Ðạo (Magga) trong bốn Thánh Ðạo chỉ phát sanh một lần duy nhất trong suốt đời. Nhưng hành giả có thể chứng nghiệm Quả (Phala) liên tục cả ngày. Quả của ba tầng Thánh đầu tiên -- Tu Ðà Huờn Quả, Tư Ðà Hàm Quả, và A Na Hàm Quả -- theo sau javana thiện.

Trong trường hợp A La Hán Quả, javana tức khắc trước đó phải là hành, bởi vì một vị asekha (bậc Thánh không còn phải tu tập nữa) không còn chứng nghiệm javana thiện.

6. Tihetuka, Ba Nhân,

Ðược tạo duyên do ba nhân alobha (không-tham, tức quảng đại), adosa (không-sân, tức từ ái), và amoha (không- si, tức trí tuệ).

7. Tức hai loại tâm thuộc Dục Giới đồng phát sanh cùng thọ hỷ và tri kiến.

8. Ðó là 4 tâm Thiền Sắc Giới (rūpa Jhāna) đầu tiên và 28 (7x4) tâm Thiền Siêu Thế. A La Hán QuảHành không được kể ở đây.

9. Ðó là: 1 ngũ thiền Sắc Giới + 4 thiền Vô Sắc Giới + 7 ngũ thiền Siêu Thế (lokuttara pañcamajjhāna).

10. Ðó là 4 thiền Sắc Giới đầu tiên + 4 thiền A La Hán Quả đầu tiên.

11. Ðó là 1 ngũ thiền Sắc Giới + 4 thiền Vô Sắc Giới + 1 ngũ thiền A La Hán Quả.

Ghi chú:

[1] Tức dập tắt những đặc tính của Dục Giới.

[2] Tức Parikamma, Upacāra và Anuloma.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29884)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27169)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21763)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20423)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23212)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19037)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23142)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19949)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39232)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26247)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15141)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15825)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant