Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phẩm Tựa

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10800)
1. Phẩm Tựa

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ NHẤT
 Đời Diêu-Tần, Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập phụng chiếu dịch.

 KINH DIỆU-PHÁP LIÊN HOA (1)
 PHẨM "TỰA" THỨ NHẤT


 1. Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu (3) đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong (4) dứt sự ràng buộc trong các cõi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-la-hán hàng tri thức của chúng.

 Lại có bậc hữu-học và vô-học (6) hai ngàn người.

 Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ -kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
 2. Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác(7) , đều chứng được pháp Đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức.Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10) , danh đồn khắp vô lượng thế-giới có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh.

 3. Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đắc-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-Tát, Bất-Hưu Tức Bồ-Tát, Bửu-Chưởng Bồ-Tát, Dược-Vương Bồ-Tát, Dõng-thí Bồ-Tát. Bửu-Nguyệt Bồ-Tát, Nguyệt-Quang Bồ-Tát, Mãn-Nguyệt Bồ-Tát, Đại-Lực Bồ-Tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-Tát, Việt-Tam-Giới Bồ-Tát, Bạt-Đà Bà-La Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát, Bửu-Tích Bồ-Tát, Đạo-Sư Bồ-Tát v.v... các vị đại Bồ-Tát như thế tám vạn người câu hội. Lúc bấy giờ, Thích-Đề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai vạn vị thiên-tử câu hội. Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một vạn thiên-tử câu hội.

 Tự-Tại thiên-tử, Đại-Tự-Tại thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn thiên-tử câu hội.

 Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quang-Minh Đại-Phạm v.v...cùng với quyến thuộc một vạn hai ngàn vị thiên-tử câu hội.

 Có tám vị Long-vương: Nan-Đà Long-vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, Sa-Dà-La Long-vương, Hòa-Tu-Cát Long-vương, Đức-Xoa-Ca Long-vương, A Na-Bà-Đạt-Đa Long-vương, Ma-Na-Tư Long-vương, Ưu-Bát-La Long-vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

 Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Đại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

 Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương: Nhạc-Càn-Thát-Bà vương, Nhạc-Âm-Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-Âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

 Có bốn vị A-Tu-La vương: Bà-Trĩ A-Tu-La vương, Dà-La-Khiên-Đà A-Tu-La vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La vương, La-Hầu A-Tu-La vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

 Có bốn vị Ca-Lâu-La vương: Đại-Oai-Đức Ca-Lâu-La vương, Đại-Thân Ca-Lâu-La vương, Đại-Mãn Ca-Lâu-La vương, Như-Ý Ca-Lâu-La vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.

 Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội.

 Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
 4. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng-dường cung kính ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-Tát mà nói kinh Đại-thừa tên là: "Vô-Lượng-Nghĩa", là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ-niệm. Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định "Vô-Lượng Nghiã-Xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.

 Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động (12) .

 Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13), A-tu-la (14), Ca-lâu-la (15), Khẩn-na-la (16), Ma-hầu-la-dà (17), nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân-thánh-vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
 5. Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18), ở các cõi kia.

 Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.

 Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạotu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
 6. Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-Tát nghĩ rằng: "Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhân duyên gì mà có điềm lành này.

 Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?"

 Ngài lại nghĩ : "Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông".

 Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng : "Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"
 7. Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-Tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: Vì nhân duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?

 8. Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng: Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!


 Đức Đạo-Sư cớ chi

 Lông trắng giữa chặn mày

 Phóng ánh sáng khắp soi?

 Trời mưa hoa Mạn-đà

 Cùng hoa Mạn-thù-Sa,

 Gió thơm mùi chiên đàn

 Vui đẹp lòng đại chúng

 Vì nhân duyên như vậy

 Cõi đất đều nghiêm tịnh

 Mà trong thế giới này

 Sáu điệu vang động lên

 Bấy giờ bốn bộ chúng

 Thảy đều rất vui mừng

 Thân cùng ý thơ thới

 Được việc chưa từng có.
 
 9. Ánh sáng giữa chặn mày


 Soi suốt thẳng phương Đông

 Một muôn tám nghìn cõi

 Đều ánh như sắc vàng.

 Từ địa ngục A-tỳ

 Trên đến trời Hữu-Đảnh

 Trong các thế giới đó

 Cả sáu đạo chúng sanh

 Sống chết của kia đến

 Nghiệp duyên lành cùng dữ

 Thọ báo có tốt xấu

 Tại đây đều thấy rõ.
 
 10. Lại thấy các đức Phật


 Đấng Thánh-Chúa sư-tử

 Diễn nói các kinh điển

 Nhiệm mầu bậc thứ nhất.

 Tiếng của Ngài thanh-tịnh

 Giọng nói ra êm dịu

 Dạy bảo các Bồ-Tát

 Vô-số ức muôn người

 Tiếng Phạm-âm thâm diệu

 Khiến người đều ưa nghe.

 Các Phật ở cõi mình

 Mà giảng nói chánh pháp

 Dùng nhiều món nhân duyên

 Cùng vô lượng tỉ dụ

 Để soi rõ Phật Pháp

 Mà khai ngộ chúng sanh.

 Nếu có người bị khổ

 Nhàm lìa già, bệnh, chết,

 Phật vì nói Niết-bàn

 Để dứt các ngằn khổ

 Nếu là người có phước

 Đã từng cúng dường Phật

 Chí cầu pháp thù thắng

 Vì nói hạnh Duyên-giác

 Nếu lại có Phật tử

 Tu-tập các công hạnh

 Để cầu tuệ vô thượng

 Phật vì nói tịnh đạo.
 
 11. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!


 Tôi ở tại nơi đây

 Thấy nghe dường ấy đó

 Và nghìn ức việc khác

 Thấy rất nhiều như thế

 Nay sẽ lược nói ra:
 
 12. Tôi thấy ở cõi kia


 Có hằng sa Bồ-Tát

 Dùng các món nhân duyên

 Mà cầu chứng Phật đạo.

 Hoặc có vị bố-thí

 Vàng, bạc, ngọc, san-hô,

 Chơn châu, ngọc như-ý,

 Ngọc xa-cừ mã-não,

 Kim-cương các trân-bửu

 Cùng tôi tớ, xe cộ

 Kiệu, cán chưng châu báu

 Vui vẻ đem bố thí

 Hồi hướng về Phật đạo

 Nguyện được chứng thừa ấy

 Bậïc nhất của ba cõi

 Các Phật hằng khen ngợi.

 Hoặc có vị Bồ-Tát

 Xe tứ mã xe báu

 Bao lơn che tàn đẹp

 Trau tria dùng bố thí.

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Bố thí cả vợ con

 Thân thịt cùng tay chân

 Để cầu vô thượng đạo.

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Đầu, mắt và thân thể

 Đều ưa vui thí cho

 Để cầu trí tuệ Phật
 
 13. Ngài Văn-Thù Sư Lợi!


 Ta thấy các Quốc-vương

 Qua đến chỗ của Phật

 Thưa hỏi đạo vô thượng

 Bèn bỏ nước vui vẻ

 Cung điện cả thần thiếp

 Cạo sạch râu lẫn tóc

 Mà mặc y pháp phục.

 Hoặc lại thấy Bồ-Tát

 Mà hiện làm Tỳ-kheo

 Một mình ở vắng vẻ

 Ưa vui tụng kinh điển

 Cũng thấy có Bồ-Tát

 Dõng mãnh và tinh tấn

 Vào ở nơi thâm sơn

 Suy xét mối Phật đạo

 Và thấy bậc ly dục

 Thường ở chỗ không nhàn

 Sâu tu các thiền định

 Được năm món thần thông

 Và thấy vị Bồ-Tát

 Chắp tay trụ thiền định

 Dùng ngàn muôn bài kệ

 Khen ngợi các Pháp-vương

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Trí sâu chí bền chắc

 Hay hỏi các đức Phật

 Nghe rồi đều thọï trì.

 Lại thấy hàng Phật tử

 Định huệ trọn đầy đủ

 Dùng vô lượng tỉ dụ

 Vì chúng mà giảng pháp

 Vui ưa nói các pháp

 Dạy bảo các Bồ-Tát

 Phá dẹp chúng binh ma

 Mà đánh rền trống pháp

 Cùng thấy vị Bồ-Tát

 Vắng bặt yên lặng ngồi

 Trời, rồng đều cung-kính

 Chẳng lấy đó làm mừng,

 Và thấy có Bồ-Tát

 Ở rừng phóng hào quang

 Cứu khổ chốn địa ngục

 Khiến đều vào Phật đạo.

 Lại thấy hàng Phật tử

 Chưa từng có ngủ nghỉ

 Kinh hành ở trong rừng

 Siêng năng cầu Phật đạo

 Cũng thấy đủ giới đức

 Uy nghi không thiếu sót

 Lòng sạch như bảo châu

 Để cầu chứng Phật đạo.

 Và thấy hàng Phật tử

 Trụ vào sức nhẫn nhục

 Bị kẻ tăng-thượng-mạn

 Mắng rủa cùng đánh đập

 Thảy đều hay nhẫn được

 Để cầu chứng Phật đạo

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Xa rời sự chơi cười

 Và quyến thuộc ngu si

 Ưa gần gũi người trí

 Chuyên tâm trừ loạn động

 Nhiếp niệm ở núi rừng

 Trải ức nghìn muôn năm

 Để cầu được Phật đạo.
 
 14. Lại thấy vị Bồ-Tát


 Đồ ăn uống ngọt ngon

 Cùng trăm món thuốc thang

 Đem cúng Phật và Tăng,

 Áo tốt đồ thượng phục

 Giá đáng đến nghìn muôn

 Hoặc là vô giá y

 Dùng nghìn muôn ức thứ

 Nhà báu bằng Chiên đàn

 Các giường nằm tốt đẹp

 Để cúng Phật cùng Tăng

 Rừng vườn rất thanh tịnh

 Bông trái đều sum sê

 Suối chảy cùng ao tắm

 Cúng cho Phật và Tăng,

 Cúng thí như thế đó

 Các đồ cúng tốt đẹp

 Vui vẻ không hề nhàm

 Để cầu đạo vô thượng.
 
 15. Lại có vị Bồ-Tát


 Giảng nói pháp tịch diệt

 Dùng các lời dạy dỗ

 Dạy vô số chúng sanh

 Hoặc thấy vị Bồ-Tát

 Quán sát các pháp tịnh

 Đều không có hai tướng

 Cũng như khoảng hư không

 Lại thấy hàng Phật tử

 Tâm không chỗ mê đắm

 Dùng món diệu huệ này

 Mà cầu đạo vô thượng.
 
 16. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!


 Lại có vị Bồ-Tát

 Sau khi Phật diệt độ

 Cúng dường Xá-Lợi-Phật.

 Lại thấy hàng Phật tử

 Xây dựng các tháp miếu

 Nhiều vô số hằng sa

 Nghiêm sức khắp cõi nước.

 Bảo tháp rất cao đẹp

 Đều năm nghìn do tuần.

 Bề ngang rộng xứng nhau

 Đều hai nghìn do tuần.

 Trong mỗi mỗi tháp miếu

 Đều có ngàn tràng phan

 Màn châu xen thả xuống

 Tiếng linh báu hòa reo

 Các vị trời, rồng, thần,

 Người cùng với phi nhơn

 Hương, hoa, cùng kỹ nhạc

 Thường đem đến cúng dường

 Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

 Các hàng Phật tử kia

 Vì cúng dường xá-lợi

 Nên trang sức tháp miếu,

 Cõi quốc giới tự nhiên

 Thù đặc rất tốt đẹp

 Như cây Thiên-thụ-vương

 Hoa kia đang xòe nở
 
 17. Phật phóng một luồng sáng


 Ta cùng cả chúng hội

 Thấy nơi cõi nước này

 Các thứ rất tốt đẹp

 Thần lực của chư Phật

 Trí huệ đều hi hữu

 Phóng một luồng tịnh-quang

 Soi khắp vô lượng cõi

 Chúng ta thấy việc này

 Được điều chưa từng có.
 
 18. Xin Phật tử Văn-Thù


 Giải quyết lòng chúng nghi

 Bốn chúng đều mong ngóng

 Nhìn ngài và nhìn ta

 Đức Thế-Tôn cớ chi

 Phóng ánh quang minh này?

 Phật tử phải thời đáp

 Quyết nghi cho chúng mừng

 Có những lợi ích

 Đức Phật phóng quang này?

 Khi Phật ngồi đạo tràng

 Chứng được pháp thâm diệu

 Vì muốn nói Pháp đó

 Hay là sẽ thọ ký?

 Hiện bày các cõi Phật

 Các báu sạch trang nghiêm

 Cùng thấy các đức Phật

 Đây không phải cớ nhỏ

 Ngài Văn-Thù nên biết

 Bốn chúng và Long, Thần

 Nhìn xem xét ngài đó

 Mong sẽ nói những gì?
 19. Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ: "Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ thì nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.

 20. Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này. Các thiện-nam-tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự Trượng-phu, Thiên-Nhâân-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.

 Phật, vì người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-giác, nói pháp Mười-hai-nhân-duyên (23) , vì hàng Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thành bậc nhứt- thiết chủng-trí. (25)

 Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Đọa.

 Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.

 Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương- tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.

 Tám vị vương- tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ (26) . Nghe vua cha xuất gia chứng đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
 21. Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm chẳng động.
 22. Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
 23. Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây.

 Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này.

 Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
 24. Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
 25. Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
 26. Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên rằng : "Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn".

 Khi đó có vị Bồ-Tát, tên Đức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ-ký (27) cho, bảo các Tỳ-kheo rằng : "Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác".

 Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
 27. Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát trì kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa" trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
 28. Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị Vương-tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đăng.
 29. Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phậtcúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.
 30. Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy.

 Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: "Diệu-Pháp Liên-Hoa"là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.

 Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 
 31. Ta nhớ thuở quá khứ

 Vô lượng vô số kiếp

 Có Phật Nhân Trung-Tôn

 Hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh

 Đức Thế-Tôn nói pháp

 Độ vô lượng chúng sanh

 Vô số ức Bồ-Tát

 Khiến vào trí huệ Phật.
 
 32. Khi Phật chưa xuất gia

 Có sanh tám vương-tử

 Thấy Đại-Thánh xuất gia

 Cũng theo tu phạm-hạnh
 
 33. Phật nói kinh Đại-thừa

 Tên là "Vô-Lượng-Nghĩa"

 Ở trong hàng đại chúng

 Mà vì rộng tỏ bày.

 Phật nói kinh ấy rồi

 Liền ở trong pháp tòa

 Xếp bằng nhập chánh định

 Tên "Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ"

 Trời rưới hoa Mạn-đà

 Trống trời tự nhiên vang

 Các trời, rồng, quỉ, thần

 Cúng dường đấng Nhân-Tôn,

 Tất cả các cõi Phật

 Tức thời vang động lớn,
 
 34. Phật phóng sáng giữa mày

 Hiện các việc hi hữu

 Aùnh sáng chiếu phương Đông

 Muôn tám nghìn cõi Phật

 Bày sanh tử nghiệp báo

 Của tất cả chúng sanh

 Lại thấy các cõi Phật

 Dùng các báu trang nghiêm

 Màu lưu ly pha lê

 Đây bởi Phật quang soi.
 35. Lại thấy những trời, người

 Rồng, thần, chúng Dạ-xoa

 Càn-thát, Khẩn-na-la

 Đều cúng dường Phật mình
 
 36. Lại thấy các Như-Lai

 Tự nhiên thành Phật đạo,

 Màu thân như núi vàng

 Đoan nghiêm rất đẹp mầu

 Như trong lưu ly sạch

 Hiện ra tượng chơn kim

 Thế-Tôn trong đại chúng

 Dạy nói nghĩa thâm diệu.
 
 37. Mỗi mỗi các cõi Phật

 Chúng Thanh-văn vô số,

 Nhân Phật-quang soi sáng

 Đều thấy đại-chúng kia.

 Hoặc có các Tỳ-kheo

 Ở tại trong núi rừng

 Tinh tấn giữ tịnh giới

 Dường như gìn châu sáng
 
 38. Lại thấy các Bồ-Tát

 Bố thí nhẫn nhục thảy

 Số đông như hằng sa (28)

 Đây bởi sáng Phật soi.

 Lại thấy hàng Bồ-Tát

 Sâu vào các thiền định

 Thân tâm lặng chẳng động

 Để cầu đạo vô thượng.

 Lại thấy các Bồ-Tát

 Rõ tướng pháp tịch diệt

 Đều ở tại nước mình

 Nói pháp cầu Phật đạo.
 
 39. Bấy giờ bốn bộ chúng


 Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Đăng

 Hiện sức thần thông lớn

 Tâm kia đều vui mừng

 Mỗi người tự hỏi nhau

 Việc này nhân-duyên gì?
 
 40. Đấng của trời người thờ

 Vừa từ chánh-định dậy

 Khen Diệu-Quang Bồ-Tát

 Ông là mắt của đời

 Mọi người đều tin về

 Hay vâng giữ tạng pháp

 Như pháp của ta nói

 Chỉ ông chứng biết được

 Đức Phật đã ngợi khen

 Cho Diệu-Quang vui mừng

 Liền nói kinh Pháp-Hoa

 Trải sáu mươi tiểu kiếp

 Chẳng rời chỗ ngồi ấy

 Ngài Diệu-Quang Pháp-sư

 Trọn đều hay thọï trì

 Pháp thượng diệu của Phật.
 41. Phật nói kinh Pháp-Hoa


 Cho chúng vui mừng rồi

 Liền chính trong ngày đó

 Bảo hàng chúng trời, người

 Các pháp "nghĩa thật tướng"

 Đã vì các ông nói

 Nay ta giữa đêm này

 Sẽ vào cõi Niết-bàn

 Phải một lòng tinh tấn

 Rời các sự buông lung

 Các Phật rất khó gặp

 Ức kiếp được một lần
 42. Các con của Phật thảy

 Nghe Phật sắp nhập diệt

 Thảy đều lòng buồn khổ

 Sao Phật gấp Niết-bàn?

 Đấng Thánh-chúa-Pháp-vương

 An ủi vô lượng chúng:

 Nếu lúc ta diệt độ

 Các ông chớ lo sợ

 Đức-Tạng Bồ-Tát đây

 Tâm đã được thông thấu

 Nơi vô lậu thiệt tướng

 Kế đây sẽ thành Phật

 Tên hiệu là Tịnh-Thân

 Cũng độ vô lượng chúng.
 43. Đêm đó Phật diệt độ


 Như củi hết, lửa tắt

 Chia phân các xá-lợi

 Mà xây vô lượng tháp

 Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni

 Số đông như hằng sa

 Lại càng thêm tinh tấn

 Để cầu đạo vô thượng
 44. Diệu-Quang pháp-sư ấy


 Vâng giữ Phật pháp tạng

 Trong tám mươi tiểu kiếp.

 Rộng nói kinh Pháp-Hoa.

 Tám vị vương-tử đó

 Được Diệu-Quang dạy bảo

 Vững bền đạo vô-thượng

 Sẽ thấy vô số Phật

 Cúng dường các Phật xong

 Thuận theo tu đại đạo

 Nối nhau đặng thành Phật

 Chuyển thứ thọ ký nhau,

 Đấng Phật rốt sau cả

 Hiệu là: Phật Nhiên-Đăng

 Đạo-Sư (29) của thiên tiên

 Độ thoát vô lượng chúng.
 
 45. Diệu-Quang Pháp-sư đó


 Có một người đệ tử

 Tâm thường cưu biếng trễ

 Tham ưa nơi danh lợi

 Cầu danh lợi không nhàm

 Thường đến nhà sang giàu

 Rời bỏ việc tụng học

 Bỏ quên không thông thuộc

 Vì bởi nhân duyên ấy

 Nên gọi là Cầu-Danh

 Cũng tu các nghiệp lành

 Được thấy vô số Phật

 Thuận tu theo đại đạo

 Đủ sáu ba-la-mật

 Nay gặp đấng Thích-Ca

 Sau đây sẽ thành Phật

 Hiệu rằng : "Phật Di-Lặc

 Rộng độ hàng chúng sanh

 Số đông đến vô lượng.
 
 46. Sau Phật kia diệt độ

 Lười biếng đó là ngài

 Còn Diệu-Quang Pháp-sư

 Nay thời chính là ta.

 Ta thấy Phật Đăng-Minh

 Điềm sáng trước như thế

 Cho nên biết rằng nay

 Phật muốn nói "Pháp-Hoa"

 Tướng nay như điềm xưa.

 Là phương tiện của Phật

 Nay Phật phóng ánh sáng

 Giúp bày nghĩa thiệt tướng

 Các người nay nên biết

 Chắp tay một lòng chờ

 Phật sẽ rưới nước pháp

 Đầy đủ người cầu đạo

 Các người cầu ba thừa (30)

 Nếu có chỗ nghi hối

 Phật sẽ dứt trừ cho

 Khiến hết không còn thừa.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12513)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10410)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12365)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28839)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12069)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11470)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12392)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17469)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53106)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35511)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21425)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10702)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19273)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12443)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26063)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13336)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14404)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16104)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16866)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17606)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13150)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11632)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11637)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20499)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19010)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19619)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18691)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12216)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12341)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13881)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15055)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15054)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14010)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15542)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11415)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17213)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14996)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20240)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11745)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15081)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13014)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22913)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14576)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11693)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13186)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16908)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18364)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11957)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15871)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18935)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18446)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant