Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Phẩm Pháp-sư công-đức

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9331)
19. Phẩm Pháp-sư công-đức

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ SÁU 
PHẨM "PHÁP-SƯ CÔNG-ĐỨC"
THỨ MƯỜI CHÍN


 1. Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường-Tinh-Tấn đại Bồ-Tát rằng: Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.

 2. Thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu-Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết. Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu người ở trong chúng

 Dùng tâm không sợ sệt

 Nói kinh Pháp-Hoa này

 Ông nghe công đức đó

 Người đó được tám trăm

 Công đức thù thắng nhãn

 Do dùng đây trang nghiêm

 Mắt kia rất thanh tịnh.

 Mắt thịt cha mẹ sanh

 Thấy cả cõi tam thiên

 Trong ngoài núi Di-lâu

 Núi Tu-di, Thiết-vi

 Và các núi rừng khác

 Biển lớn nước sông ngòi

 Dưới đến ngục A-tỳ

 Trên đến trời Hữu-Đảnh

 Chúng sanh ở trong đó

 Tất cả đều thấy rõ

 Dầu chưa được thiên nhãn

 Sức nhục nhãn như thế.
 3. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, được một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa-ngục vô gián, trên đến trời Hữu-Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng. Tiếng voi, tiếng ngựa,tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng-tử, tiếng đồng-nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ xoa, tiếng Càn thát bà, tiếng A tu la, tiếng Ca lâu la, tiếng Khẩn na la, tiếng Ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa-ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh-văn, tiếng Bích-chi-Phật, tiếng Bồ-Tát, tiếng Phật.

 Nói tóm đó, trong cõi tam-thiên đại-thiên, tất cả trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa được thiên nhĩ dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.

 Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 4. Tai cha mẹ sanh ra

 Trong sạch không đục nhơ

 Dù tai này thường nghe

 Cả tiếng cõi tam thiên

 Tiếng voi, ngựa, trâu, xe

 Tiếng chung linh loa cổ

 Tiếng cầm, sắc, không hầu

 Tiếng ống tiêu, ống dịch

 Tiếng ca hay thanh tịnh

 Nghe đó mà chẳng ham.

 Tiếng vô số giống người

 Nghe đều hiểu rõ được

 Lại nghe tiếng các trời

 Tiếng ca rất nhiệm mầu

 Và nghe tiếng trai, gái,

 Tiếng đồng-tử, đồng-nữ

 Trong núi sông hang hiểm

 Tiếng Ca-lăng-tần-dà

 Cộng-mạng các chim thảy

 Đều nghe tiếng của nó.

 Địa ngục các đau đớn

 Các thứ tiếng độc khổ

 Ngạ quỷ đói khát bức

 Tiếng tìm cầu uống ăn

 Các hàng A-tu-la

 Ở nơi bên biển lớn

 Lúc cùng nhau nói năng

 Vang ra tiếng tăm lớn

 Như thế người nói pháp

 An trụ ở trong đây

 Xa nghe các tiếng đó

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Trong cõi nước mười phương

 Cầm thú kêu hô nhau

 Người nói kinh Pháp-Hoa

 Ở đây đều nghe đó

 Trên các trời Phạm-Thế

 Quang-Âm cùng Biến-Tịnh

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Tiếng tăm của kia nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Tất cả chúng Tỳ-kheo

 Và các Tỳ-kheo-ni

 Hoặc đọc tụng kinh điển,

 Hoặc vì người khác nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Lại có các Bồ-Tát

 Đọc tụng nơi kinh pháp

 Hoặc vì người khác nói

 Soạn tập giải nghĩa kinh

 Các tiếng tăm như thế

 Thảy đều được nghe đó.

 Các Phật đấng Đại-Thánh

 Giáo hóa hàng chúng sanh

 Ở trong các đại hội

 Diễn nói pháp nhiệm mầu

 Người trì Pháp-Hoa nầy

 Thảy đều được nghe đó.

 Cõi tam-thiên đại-thiên

 Các tiếng tăm trong ngoài

 Dưới đến ngục A-tỳ (3)

 Trên đến trời Hữu-Đảnh (4)

 Đều nghe tiếng tăm kia

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Vì tai kia sáng lẹ

 Đều hay phân biệt biết

 Người trì kinh Pháp-Hoa

 Dầu chưa được thiên nhĩ

 Chỉ dùng tai sanh ra

 Công đức đã như thế.
 5. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiệân-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ công đức, dùng tỹ căn thanh tịnh đó, ngửi khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: Mùi hoa tu-mạn-na, mùi hoa xa-đề, mùi hoa mạt-lợi, mùi hoa chiêm-bặc, mùi hoa ba-la-la, mùi hoa sen đỏ, mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắng, mùi cây có hoa, mùi cây có trái, mùi chiên-đàn, mùi trầm-thủy, mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-da-la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.

 Và lại rõ biết mùi chúng sanh : Mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng-nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều được ngữi rõ biết chẳng nhầm.

 Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng ngửi mùi trên các cõi trời: Mùi cây ba- lợi-chất-đa-la, cây câu-bệ-đa-la, cùng mùi hoa mạn-đà-la, hoa đại-mạn-đa-la, hoa mạn-thù-sa, hoa đại-mạn-thù-sa, mùi gỗ chiên-đàn, trầm-thuỷ các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hợp thoảng ra mùi thơm đều ngửi biết.

 Lại ngửi mùi nơi thân của các vị trời : Mùi của Thích-Đề-Hoàn-Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên Diệu-Pháp-Đường vì các vị trời Đao-Lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa ngửi biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm-Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu-Đảnh cũng đều ngửi biết.

 Và ngửi mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh-văn, mùi Bích-chi-Phật, mùi Bồ-Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa ngửi biết chỗ ở của đó. Dầu ngửi biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt vì người khác nói, nghi nhớ không nhầm.

 Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 6. Người đó mũi thanh tịnh

 Ở trong thế giới này

 Hoặc vật thơm hoặc hôi

 Các thứ đều ngửi biết.

 Tu-mạn-na, xa-đề

 Đa-ma-la, chiên-đàn

 Trầm-thủy và mùi quế

 Mùi các thứ hoa trái

 Và mùi các chúng sanh :

 Mùi nam-tử, nữ-nhơn

 Người nói pháp ở xa

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Đại-Thế Chuyển-luân-vương

 Tiểu-chuyển-luân và con

 Bầy tôi, các cung nhân

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Trân bảo đeo nơi thân

 Cùng tạng báu trong đất

 Bảo-nữ của Luân-vương

 Ngửi hương biết chỗ nào.

 Mọi người đồ nghiêm thân

 Y phụcchuỗi ngọc

 Các thứ hương xoa thân

 Ngửi mùi biết thân kia.

 Các trời hoặc đi, ngồi

 Dạo chơi và thần biến

 Người trì Pháp-Hoa này

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cây hoa trái hột

 Và mùi thơm dầu tô

 Người trì kinh ở đây

 Đều biết ở chỗ nào.

 Các núi, chỗ sâu hiểm

 Cây chiên-đàn nở hoa

 Chúng sanh ở trong đó

 Ngửi mùi đều biết được.

 Núi Thiết-vi, biển lớn

 Các chúng sanh trong đất

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết đó ở đâu

 Trai gái A-tu-la

 Và quyến thuộc của chúng

 Lúc đánh cãi, dạo chơi

 Ngửi hương đều biết được.

 Đồng trống, chỗ hiểm trở

 Sư tử, voi, hùm, sói

 Bò rừng, trâu nước thảy

 Ngửi hương biết chỗ ở.

 Nếu có người nghén chửa

 Chưa rõ trai hay gái

 Không căn và phi nhơn

 Ngửi mùi đều biết được.

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết người mới nghén chửa

 Thành tựu hay chẳng thành

 An vui đẻ con phước

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết tâm niệm trai, gái

 Lòng nhiễm dục ngu, hờn

 Cũng biết người tu hành

 Các phục tàng trong đất

 Vàng, bạc, các trân bảo

 Đồ đồng chỗ đựng chứa

 Nghe nói đều biết được

 Các thứ chuỗi ngọc báu

 Không ai biết giá mấy

 Ngửi mùi biết mắc rẻ

 Chỗ sản xuất ở đâu.

 Các thứ hoa trên trời

 Mạn-đà, mạn-thù-sa

 Cây Ba-lợi-chất-đa

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cung điện trên trời

 Thượng, trung, hạ sai khác

 Các hoa báu trang nghiêm

 Ngửi hương đều biết được.

 Thắng điện vườn rừng trời

 Các nhà Diệu-Pháp-Đường

 Ở trong đó vui chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các trời hoặc nghe pháp

 Hoặc lúc hưởng ngũ dục

 Lại, qua, đi, ngồi, nằm

 Ngửi mùi đều biết được.

 Thiên nữ mặc y phục

 Hoa hương tốt trang nghiêm

 Lúc quanh khắp dạo chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Lần lượt lên như thế

 Nhẫn đến trời Phạm-Thế

 Nhập thiền cùng xuất thiền

 Ngửi mùi đều biết được.

 Trời Quang-Aââm, Biến-Tịnh (5)

 Nhẫn đến nơi Hữu-Đảnh

 Mới sanh và lui chết

 Ngửi hương đều biết được.

 Các hàng Ty-kheo chúng

 Nơi pháp thường tinh tấn

 Hoặc ngồi hoặc kinh hành

 Và đọc tụng kinh điển

 Hoặc ở dưới rừng cây

 Chuyên ròng mà ngồi thiền

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết ở tại đâu.

 Bồ-Tát chí bền chắc

 Ngồi thiền hoặc đọc tụng

 Hoặc vì người nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Nơi nơi chỗ Thế-Tôn

 Được mọi người cung kính

 Thương chúng mà nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Chúng sanh ở trước Phật

 Nghe kinh đều mừng vui

 Đúng pháp mà tu hành

 Ngửi mùi đều biết được.

 Dầu chưa được vô lậu

 Pháp-sanh-tỹ Bồ-Tát

 Mà người trì kinh đây

 Trước được tướng mũi nàî
 7. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử, cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, được một nghìn hai trăm thiệt công đức.

 Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam-lồ trên trời không món nào là chẳng ngon.
 Nếu được thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích.
 Lại các vị thiên-tử, thiên-nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng Long, Long- nữ, Da-xoa, Da-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-ba nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-da nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường.
 Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-ba-di, Quốc-vương, Vương-tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển-luân-vương, đại Chuyển-luân-vương, bảy báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.
 Vì vị Bồ-Tát này khéo nói pháp, nên hàng Ba-la-môn, cư-sĩ, nhân dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh-văn, Bích-chi-Phật, Bồ-Tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật Pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu.

 Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 8. Người đó lưỡi thanh tịnh

 Trọn không thọ vị xấu

 Người đó ăn uống chi

 Đều biến thành cam-lồ.

 Dùng tiếng hay thâm tịnh

 Ở trong chúng nói pháp

 Đem các nhân duyên dụ

 Dẫn dắt lòng chúng sanh

 Người nghe đều vui mừng

 Bày đồ cúng dường tốt.

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 Cùng A-tu-la thảy

 Đều dùng lòng cung kính

 Mà đồng đến nghe pháp

 Người nói kinh pháp đó

 Nếu muốn dùng tiếng mầu

 Khắp cùng cõi Tam-thiên

 Tuỳ ý liền được đến.

 Đại, Tiểu Chuyển-luân-vương

 Và nghìn con quyến thuộc

 Chấp tay lòng cung kính

 Thường đến nghe thọ pháp,

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 La-sát, Tỳ-xá-xà

 Cũng dùng lòng vui mừng

 Thường ưa đến cúng dường,

 Phạm-thiên-vương, Ma-vương,

 Tự-tại, Đại-tự-tại

 Các chúng trời như thế

 Thường đến chỗ người đó.

 Các Phật cùng đệ tử

 Nghe người nói tiếng pháp

 Thương nhớ giữ gìn cho

 Hoặc lúc vì hiện thân.
 9. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép được tám trăm thân công đức, được thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v.. đều hiện rõ trong đó.

 Và núi Thiết-vi, núi Đại-thiết-vi, núi Di-lâu, núi Đại-di-lâu..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu-Đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh- văn, Duyên-giác, Bồ-Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng.
 10. Nếu người trì Pháp-Hoa

 Thân thể rất thanh tịnh

 Như lưu ly sạch kia

 Chúng sanh đều ưa thấy.

 Lại như gương sáng sạch

 Đều thấy các sắc tượng

 Bồ-Tát nơi tịnh thân

 Thấy cả vật trong đời

 Chỉ riêng mình thấy rõ

 Người khác không thấy được,

 Trong cõi nước tam-thiên

 Tất cả các chúng sanh

 Trời, người, A-tu-la

 Địa-ngục, quỷ, súc-sanh

 Các sắc tượng như thế

 Đều hiện rõ trong thân.

 Cung điện của các trời

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Núi Thiết-vi, Di-lâu

 Núi Ma-ha Di-lâu

 Các biển nước lớn thảy

 Đều hiện ở trong thân.

 Các Phật cùng Thanh-văn

 Phật tử Bồ-Tát thảy

 Hoặc riêng, hoặc tại chúng

 Nói pháp thảy đều hiện.

 Dầu chưa được diệu thân

 Pháp tánh sạch các lậu

 Dùng thân thanh tịnh thường

 Tất cả hiện trong đó.
 11. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, nếu có người thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời được một nghìn hai trăm ý công đức.

 Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thật tướng chẳng trái nhau.

 Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hý luận, thảy đều biết đó.

 Dầu chưa được trí huệ vô lậuý căn thanh tịnh như thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chân thật, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
 12. Ý người đó thanh tịnh

Sáng lanh không đục nhơ

Dùng ý căn tốt đó

Biết pháp : Thượng, trung, hạ

Nhẫn đến nghe một kệ

Thông đạt vô lượng nghĩa

Thứ đệ nói đúng pháp

Tháng, bốn tháng, đến năm.

Trong ngoài của cõi này

Tất cả các chúng sanh

Hoặc trời rồng và người

Dạ-xoa, quỉ, thần thảy

Kia ở trong sáu đường

Nghĩ tưởng bao nhiêu đều

Phước báo trì Pháp-Hoa

Đồng thời thảy đều biết.

Vô số Phật mười phương

Trăm phước tướng trang nghiêm

chúng sanh nói pháp

Đều nghe hay thọ trì.

Suy gẫm vô lượng nghĩa

Nói pháp cũng vô lượng

Sau trước chẳng quên lộn

Bởi thọ trì Pháp-Hoa

Trọn biết các pháp tướng

Theo nghĩa rõ thứ đệ.

Suốt danh tự ngữ ngôn

Như chỗ biết diễn nói.

Người đó có nói ra

Là pháp của Phật trước

Vì diễn nói pháp này

Ở trong chúng không sợ.

Người trì kinh Pháp-Hoa

Ý căn tịnh như thế

Dầu chưa được vô lậu

Trước có tướng dường ấy.

Người đó trì kinh này

An trụ bậc hy hữu

Được tất cả chúng sanh

Vui mừng mà mến kính.

Hay dùng nghìn muôn ức

Lời lẽ rất hay khéo

Phân biệt mà nói pháp

Bởi trì kinh Pháp-Hoa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15709)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16404)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23626)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17522)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81364)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19623)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20275)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47474)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39242)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15852)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23268)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19309)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16829)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13102)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13167)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49054)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23369)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19454)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17199)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32174)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27504)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14362)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14830)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18666)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16459)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13959)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17320)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19420)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28081)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14433)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16975)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22214)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28060)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64906)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33283)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40230)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25166)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50292)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38601)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28628)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52289)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35938)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32944)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50897)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74962)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36191)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49040)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31055)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33995)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28957)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58884)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46320)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43866)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43257)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45987)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48067)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant