Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư Mục Tham Khảo

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9605)
Thư Mục Tham Khảo

KINH PHÁP HOA TINH YẾU
Bhikkhu Thích Thái Hòa

Thư Mục Tham Khảo

- Hán Bản:

1-Tát-đàm-phân-đà-lỵ kinh, mất tên người dịch, số ký hiệu 265, Đại chính 9, tr 197.
2- Chánh Pháp Hoa Kinh, Trúc Pháp Hộ dịch, năm 286, số ký hiệu 263, Đại chính 9, tr 63.
3- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập dịch, năm 404, số ký hiệu 262, Đại chính 9, tr 01.
4- Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh, Trí Nghiêm dịch, Lưu Tống ( 420 – 479), số ký hiệu 269, Đại chính 9, tr 285.
5- Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Xà-na-quật-đa và Cấp-đa dịch, năm 601, số ký hiệu 269, Đại chính 9, tr 131.
6- Pháp Hoa Kinh Nghĩa Ký, Pháp Vân soạn, đời Lương, Đại chính 33, tr 572.
7- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Trí Khải thuyết, Tùy, số ký hiệu 1717, Đại chính 33, tr 681.
8- Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm, Trạm Nhiên, Thuật, Đường, Đại chính 33, tr 815.
9- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú, Trí Khải thuyết, Tùy, số ký hiệu 1719, Đại Chính 34, tr 01.
10- Pháp Hoa Huyền Luận, Cát Tạng soạn, Tùy, Đại chính 34, tr 361.
11- Pháp Hoa Nghĩa Sớ, Cát Tạng soạn, Tùy, Đại chính 34, tr 451.
12- Pháp Hoa Du Ý, Cát Tạng tạo, Tùy, Đại chính 34, tr 633.
13- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, Khuy Cơ soạn, Đường, Đại chính 34. tr 651.
14 – Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết, Tuệ Chiếu soạn, Đường, Đại chính 34, tr 854.
15- Pháp Hoa Tông Yếu, Nguyên Hiểu soạn, Tân La, Đại chính 34, tr 870.
16 – Ma Ha Chỉ Quán, Trí Khải thuyết, Đại chính 46, tr 01.
17- Pháp Hoa Nghĩa Sớ, Thánh Đức Thái Tử soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 64.
18- Pháp Hoa Lược Sao, Minh Nhất soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 129.
19- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thích Văn, Nhật Bản, Minh Toán soạn, Đại chính 56, tr 144.
20- Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Không Hải soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 172.
21- Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Biến Chiếu Xà Lê Ký, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 175.
22- Pháp Hoa Lược Bí Thích, Trường Khoan Tam Niên Tứ Nguyệt Thập Tứ Nhật Ư Khuyến Tu Tự, Tây Minh Viện Thơ Tả Liễu, Đại chính 56, tr 183.
23- Pháp Hoa Kinh Mật Hiệu, Đại chính 56, tr 182.
24- Pháp hoa Bí Thích, Giác Khâm? , Đại chính 56, tr 184.
25- Nhập Chân Ngôn Môn Trú Như Thực Kiến Giảng Diễn Pháp Hoa Lược Nghi, Viên Trân, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 189.
26- Pháp Hoa Khai Thị Sao, Trinh Khánh soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 255.
27- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá, Bà Sô Bàn Đậu (Vasubandhu) thích, Bồ Đề Lưu Chi Cộng Đàm Lâm,… dịch, Hậu Ngụy, Đại chính 26, tr 01.
28- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá, Bà Sô Bàn Đậu (Vasubandhu) tạo, Cần Na Ma Đề, Cộng Tăng Lãng dịch, Nguyên Ngụy, Đại chính 26, tr 10. 
29- Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do Minh Dung – Pháp Thông khắc in đời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), bản gỗ hiện đang tàng trữ tại chùa Phật Quang, Thị xã Phan Thiết.
30- Pháp Hoa Kinh Tông Chỉ Đề Cương, Thanh Đàm Tỷ Kheo, Giác Đạo Tuân Minh Chánh Thiền Sư soạn, Bản khắc Hoàng Triều Bảo Đại, cửu niên, tứ nguyệt sơ thập nhật, Việt Nam Phật Điển Tòng San.
31- Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tạo, Hậu Tần, La Thập dịch, Đại chính 25, tr 57.

-Phạn Bản
 -Saddharmapuṇḍarīkasūtram-Buddhist Sanskrit Texts – No 6.

- Anh Bản:

1-The Lotus of the True Law: 
Do Kern, Nhà Phật học Hòa Lan dịch từ bản Phạn văn Népal, năm 1880, gồm có 27 phẩm, hiện có ở trong The Sacred of the East.

2- The Lotus Scripture Essence:
Bộ nầy là lược dịch từ bản chữ Hán của Ngài La Thập, gồm có 28 phẩm, hiện nằm trong bộ The New Test Ament of High Buddhism của Lichard, xuất bản năm 1900.

3- The Lotus of the Wonderful Law:
Do hai nhà học giả Soothill và Kato dịch, gồm có 28 phẩm, xuất bản tại London năm 1930.

4-The Lotus Sutra:
Do Senchu Muarano dịch từ bản của Ngài La Thập, Nhật Liên Tông tại Nhật xuất bản 1974.

5-The Lotus Sutra:
Do Burton Watson dịch từ bản Hán của Ngài La Thập, Columbia University Press New york, 1993.

 -Pháp Bản:

- Le Lotus De La Bonne Loi, do Hàn Lâm Học Sĩ E. Burnouf dịch từ bộ Phạn ngữ Népal vào năm 1925.

-Việt Bản:

1- Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh, Pháp Liên dịch từ bản Hán của La Thập sang chữ Nôm năm 1848, in năm 1856.
2- Pháp Hoa Lược Giải, Trí Quang Thượng Nhân, NXB TP Hồ Chí Minh, 1998.
3- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, NXB Tôn Giáo, 2001.
4- Đại ý Kinh Pháp Hoa, Thích Thanh Kiểm, Thành Hội PG T.P Hồ Chí Minh, ấn hành 1990.
5- Luợc Giải kinh Pháp Hoa, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế, ấn hành năm 2003.
6- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Nhà xb Tôn Giáo 2003.
7- Sen Nở Trời Phương Ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Lá bối xb 19?
8- Lược giải kinh Pháp Hoa, Hòa Thượng Thích Trí Quảng, xuất bản Tôn Giáo 1999.
9- Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa, Hám Sơn – Đức Thanh, Hòa Thượng Trí Tịnh dịch và giảng, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2007.

 Sách

1- Hoằng Tán Pháp Hoa Truyện, Đường, Huệ Tường soạn, Đại chính 51, tr 12.
2- Pháp Hoa Truyện Ký, Đường, Tăng Tường, soạn, Đại chính 51, tr 48.
3- Thiên Thai Cửu Tổ Truyện, Tống, Sĩ Hành biên, Đại chính 51, tr 97.
4- Phật Tổ Thống Kỷ, Tống, Chí Bàn soạn, Đại chính 49, tr 129.
5- Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, Tùy, Phí Trường Phòng soạn, Đại chính 49, tr 22.
6- Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải, Nguyên, Niệm Thường tập, Đại chính 49, tr 477.
7- Hoằng Minh Tập, Lương, Tăng Hựu soạn, Đại chính 52, tr 01.
8- Quảng Hoằng Minh Tập, Đường, Đạo Tuyên soạn, Đại chính 52, tr 97.
9- Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục, Cảnh Hưng Bát Niên, Tuế Thứ Đinh Mão, Ngũ Nguyệt, Cát Nhật Từ Pháp Soạn Thuật – (Cảnh Hưng 8 – 1747).
10- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, Tân Việt, 1954.
11- Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam I, Lê Mạnh Thát, Thuận Hóa 1999.
12- Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 2, Lê mạnh Thát, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 2001.
13- Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 3, Lê Mạnh Thát, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh 2002.
14- Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, Nxb Văn Học, Hà Nội 1992.
15- Toàn Tập Minh Châu Huơng Hải, Lê Mạnh Thát, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 2000.
16 – Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục Giảng Giải, Thích Thanh Từ, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 1999.
17- Thánh Đăng Ngữ Lục Giảng Giải, Thích Thanh Từ, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 1999.
18- Toàn Tập Trần Thái Tông, Nxb Tổng Hợp T.P Hồ Chí Minh 2004.
19- Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông, Thích Thanh Kiểm dịch, Nxb Tôn Giáo, 2003.
 20- Toàn Tập Trần Nhân Tông, Nxb Tổng Hợp T.P Hồ Chí Minh 2006.
 21- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nxb Văn Học, 2006.
 22- Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong, Nguyễn Hiền Đức, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995.
 23- Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát, Nxb Phương Đông, 2005.
 26 – Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài, Lê Mạnh Thát, Nxb Tổng Hợp TP, Hồ Chí Minh, 2005.
 27- Lịch Sử Phật Giáo Huế, Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, Nxb Văn Hóa Sài Gòn.
 
 
 

1 Chánh Pháp Hoa Kinh, Pháp Hộ, Đại Chính 9, tr 63.
2 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 01.
3-Tăng Duệ, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Hậu Tự, Đại Chính 9, tr 62a. 
4 - Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Nhật Bản, Không Hải soạn, Đại Chính 56, tr 173ab.
5 - Chánh Pháp Hoa Kinh, Pháp Hộ, Đại Chính 9, tr 63

6 La Thập, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Đại Chính 9, 01. 

7 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Đại Chính 9, tr 35c. 
8 –Tăng thượng mạn: Phạn văn là adhimāna. Tâm kiêu mạn, chưa chứng đắc quả vị hoặc trí đức thực sự mà tự nhận rằng, mình đã kinh qua và chứng đắc (Phật Quang Đại Từ Điển 6, tr 5812b).

9 Thanh Đàm, Pháp Hoa Đề Cương, Việt Nam Phật Điển Tòng San.
10 Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Không Hải, Nhật Bản, Đại Chính 56, tr 173bc.
- Tỳ Lô Giá Na: Phạn là Vairocana. Phiên âm là Tỳ lô giá na, Tỳ lâu giá na, Tỳ lô chiết na,... Dịch ý là Biến nhất thế xứ; nghĩa là có mặt khắp mọi nơi; hoặc dịch là Quang minh biến chiếu, nghĩa là ánh sáng soi chiếu cùng khắp; Đại nhật biến chiếu, nghĩa là mặt trời vĩ đại soi chiếu cùng khắp,… Như vậy, Tỳ lô giá na, nghĩa là thân trí tuệ của Phật soi sáng cùng khắp, không có bất cứ sự chướng ngại nào, đối với sự và lý ở trong pháp giới (Phật Quang Đại Từ Điển 4, tr 3858, 3850).

 [1][1] Như Lai Thọ Lượng phẩm, Hán – La Thập, Đại Chính 9, tr 42.
- Tathāgāyuspramānaparivartah - Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.189. 
 [2][2] Phương Tiện phẩm, Hán – La Thập, Đại Chính 9, tr 02.
- Lysāya kai’slyaparivartah - Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.21.
 [3][3] Kiến Bảo Tháp phẩm, Hán – La Thập, tr 32, Đại Chính 9.
- Stūpasamdar’sānaparivartah – Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.149.
 [4][4] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 8b. 
 [5][5] Pháp Sư phẩm, Đại Chính 9, , tr 31c.
 [6][6] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 9b. 
 [7][7] Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 28a.
 [8][8] Phương Tiện phẩm, tr 10b, Đại Chính 9.
 [9][9] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 10a.
 [10][10] Thí Dụ phẩm, Đại Chính 9, tr 10c.
 [11][11] Tín Giải phẩm, Đại Chính 9, tr 16.
 [12][12] Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 20.
 [13][13] Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 27.
 Thọ Học Vô Học Nhân Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 29.
 [14][14] Tín Giải phẩm, Đại Chính 9, tr 16.
 [15][15] Đề Bà Đạt Đa phẩm, tr 35A, Đại Chính 9.
 [16][16] Đề Bà Đạt Đa phẩm, tr 34, Đại Chính 9.
 [17][17] Kiến Bảo Tháp phẩm, tr 32, Đại Chính 9.
 [18][18] Như Lai Thọ Lượng phẩm, tr 42, Đại Chính 9.
 [19][19] Gia trì cho đức tin Pháp Hoa để có đủ năng lực hoằng truyền kinh này, chứa đựng ở phẩm 10 và từ phẩm 21-27 của kinh Pháp Hoa.
 [20][20] Như Lai Thần Lực phẩm, Đại Chính 9, tr 52a.
 [21][21] Thí Dụ phẩm, Đại Chính 9, tr 10c.
 [22][22] Dược Thảo phẩm, Đại Chính 9, tr 19. 
 [23][23] Hóa Thành Dụ phẩm, Đại Chính 9, tr 22. 
 [24][24] Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 27.
 [25][25] Khuyến Trì phẩm, tr 36A, Đại Chính 9.
 [26][26] Sách và trang đã dẫn như trên.
 [27][27] An Lạc Hạnh phẩm, Đại Chính 9, tr 38 c.
 [28][28] Phân Biệt Công Đức phẩm, Đại Chính 9, tr 44.
 [29][29] Tùy Hỷ Công Đức phẩm, Đại Chính 9, tr 46.
 [30][30] Pháp Sư Công Đức phẩm, Đại Chính 9, tr 47.
 [31][31] Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm, Đại Chính 9, tr 47.
 [32][32] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 9a.
 [33][33] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 7c.
- Upàyakai’salyaparivartah, Buddhist Sanskrit Texts, No.6, P.30.
 [34][34] Pháp Sư phẩm, Đại Chính 9, tr 31c.
 [35][35] An Lạc Hạnh phẩm, Đại Chính 9, tr 37b.
 [36][36] Phổ Môn phẩm, Đại Chính 9, tr 58a.
 [37][37] Pháp Sư phẩm, Đại Chính 9, tr 30c.
 [38][38] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 5c.
 [39][39] Như trên.
1 Nhất Hạnh, Sen Nở Trời Phương Ngoại, Lá Bối xuất bản?.
2 - Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 5b.
3 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 10c. 
4 Như trên, tr 11b.
5 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính, tr 34c - 35a.
6 Như trên, tr 35a.
7 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 36a 
8 Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 52c.
1 Kinh Ariyapariyesena.
2 Diệu Pháp Liên Hoa Hoa Kinh – Phương Tiện Phẩm, Đại Chính 9, tr 10a.
3 Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân Kinh, Tạp A Hàm, Đại Chính 2, tr 504.
4 Theo thư tịch Bắc truyền, thì Ngài Ca Diếp chủ tọa Hội nghị. Nhưng theo thư tịch Nam truyền, thì Ngài Ưu ba li chủ tọa Hội nghị.
5 Có tư liệu cho rằng, Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, không xảy ra dưới thời vua A`soka (A Dục), vì thời nầy chư Tăng phân hóa, mà hội nghị xảy ra tại đảo quốc Tích Lan dưới Triều vua nước ấy, trùng tên với A`soka (A Dục).
6 Wintenitz, p 304, of his History vol II – P.L Vaidya – Introduction – Buddhist Sanskrit texts, No 6.
7 Translator `s Introduction – The Lotus Sutra.
8 Đại Chính 26, tr 01- 20.
9 Ngụy Thư – Thích Lão Chí.
10 Hậu Hán Kỷ - Phật Tổ Thống Kỷ.
11 Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Đại Chính 17,tr 722.

 Vi tính: Quảng Huệ, Thái Tịnh, Mãn Toàn.
 Chính tả: Nhuận Tâm Dung, Nhuận Bảo Châu, Nhuận Uyên Như.
 Ấn tống: Tâm Thảo - Bảo Tâm.

Người gửi bài: Tâm Minh 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12358)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11661)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28819)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12059)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13019)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17455)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35498)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12425)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13324)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13735)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12544)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11630)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19592)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12193)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12331)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15042)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11408)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20224)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13858)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22897)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11671)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11510)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12895)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18434)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant