Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9236)
Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

Cuốn 6

Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa

Vào lúc ấy, đức Thế Tôn bảo đại bồ tát Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoatiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành..., thì người ấy sẽ được tám trăm phẩm chất tốt của mắt, một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của tai, tám trăm phẩm chất tốt của mũi, một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của lưỡi, tám trăm phẩm chất tốt của thân và một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của ý. Do những phẩm chất này trang sức mà làm cho sáu căn thông suốt tất cả.

Thiện nam hay thiện nữ ấy, với mắt thịt trong suốt do cha mẹ sinh ra mà thấy cả trong và ngoài đại thiên thế giới: thấy núi rừng sông biển, thấy dưới đến địa ngục Vô gián trên đến trời Hữu đỉnh, trong đó tất cả chúng sinh, hành vi của tất cả chúng sinh ấy, và những chỗ của hành vi ấy kết quả sinh đến, cũng thấy biết hết thảy. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Ở giữa công chúng,

đem sự không sợ

giảng Pháp Hoa,

thì Thường tinh Tiến,

đại sĩ hãy nghe

thành quả người ấy.

(2) Người ấy có được

nhãn căn siêu việt,

đầy đủ tám trăm

những phẩm chất tốt.

Do phẩm chất này

trang sức nhãn căn,

nên mắt người ấy

rất là trong suốt.

(3-Chỉ là con mắt

4) do cha mẹ sinh,

mà thấy trong ngoài

đại thiên thế giới:

Di lâu, Tu di,

Thiết vi cùng với

bao nhiêu núi rừng;

tất cả biển cả,

sông lớn cùng với

bao nhiêu dòng nước.

(5) Dưới đến Vô gián

trên đến Hữu đỉnh,

cùng với các loại

chúng sinh trong đó,

người ấy ở đây

mà thấy rõ cả.

(6) Chưa được mắt trời,

chỉ là năng lực

mắt thịt mà thôi

mà đã như vậy.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoatiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành..., thì được một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của tai. Với tai thịt trong suốt ấy mà nghe cả đại thiên thế giới. Dưới đến Vô gián, trên đến Hữu đỉnh, bao nhiêu lời tiếng trong và ngoài: tiếng voi ngựa, tiếng trâu bò, tiếng xe thuyền; tiếng khóc lóc, tiếng than thở; tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng chuông nhỏ; tiếng cười, tiếng nói, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng đồng nam, tiếng đồng nữ; tiếng chánh pháp, tiếng phi chánh pháp; tiếng khổ, tiếng vui; tiếng phàm phu, tiếng thánh giả; tiếng đáng ưa, tiếng đáng ghét; tiếng trời, tiếng rồng, tiếng dạ xoa, tiếng càn thát bà, tiếng a tu la, tiếng ca lâu la, tiếng khẩn na la, tiếng ma hầu la dà; tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng đất; tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỉ; tiếng tỷ kheo, tiếng tỷ kheo ni; tiếng thanh văn, tiếng duyên giác, tiếng bồ tát, tiếng Phật đà. Nói tổng quát, hết thảy lời và tiếng ở trong và ngoài đại thiên thế giới, tuy chưa được tai trời, chỉ dùng tai thịt trong suốt nhưng bình thường, do cha mẹ sinh ra, mà nghe tất cả. Và phân biệt các loại lời tiếng như vậy mà không hỏng nhĩ căn. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(7) Tai cha mẹ sinh

trong suốt hoàn hảo.

Đem tai thường ấy

nghe được hết

các loại lời tiếng

toàn cõi đại thiên.

(8) Các tiếng voi ngựa

trâu bò xe thuyền;

tiếng chuông, chuông nhỏ,

ốc, trống, cầm, sắt,

không hầu, tiêu, sáo,

bao tiếng nhạc khí;

(9) cùng tiếng ca hát

trong thanh tuyệt nhã,

nghe rõ tất cả

mà không đam mê.

Vô số chủng loại

tiếng của loài người,

nghe đủ tất cả

hiểu rõ ràng.

(10) Tiếng của chư thiên,

tiếng hát tuyệt diệu

của chư thiên ấy,

cũng nghe được cả.

Lại nghe rõ hết

tiếng nam, tiếng nữ,

tiếng của đồng nam,

tiếng của đồng nữ.

(11) Tiếng các loài chim

ở trong núi cao,

nguồn sâu, hang hiểm,

đại khái như là

tần dà, cọng mạng,

cũng nghe được hết.

(12) Mọi tiếng đau đớn

của trong địa ngục;

tiếng kiếm uống ăn

của loài ngạ quỉ;

(13) loài a tu la

ở bờ biển cả

khi nói với nhau

phát tiếng rất lớn.

Người giảng Pháp Hoa

vị trí mình

mà xa nghe cả

các tiếng như vậy,

nghe mà không bị

hư hỏng nhĩ căn.

(14) Mười phương thế giới

chim muông kêu nhau,

người giảng Pháp Hoa

ở đây nghe cả.

(15) Lời tiếng chư thiên

ở các Phạn thiên,

Quang âm, Biến tịnh,

đến tận Hữu đỉnh,

người giảng Pháp Hoa

ở đây nghe cả.

(16) Các chúng tỷ kheo

tỷ kheo ni

đọc tụng kinh pháp

hay giảng cho người,

người giảng Pháp Hoa

ở đây nghe cả.

(17) Và các bồ tát

đọc tụng kinh pháp,

hoặc giảng cho người,

biên tập, giải thích,

các tiếng như vậy

đều nghe được cả.

(18) Chư vị Phật đà_

những đại thánh triết,

những đấng giáo hoá

tất cả chúng sinh,

nói pháp tinh túy

giữa các đại hội,

người giữ Pháp Hoa

cũng nghe được cả.

(19) Mọi tiếng trong ngoài

đại thiên thế giới,

dưới đến Vô gián

trên đến Hữu đỉnh,

nghe hết mà không

hư hỏng nhĩ căn.

(20) Nhĩ căn như vậy

thông suốt bén nhạy,

nên nghe được hết

và biết rành cả.

(21) Những người kính giữ

Diệu Pháp Liên Hoa

tuy rằng chưa được

tai của chư thiên,

chỉ dùng tai thường

do cha mẹ sinh,

mà phẩm chất tốt

đã đến như vậy.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoatiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành..., thì được tám trăm phẩm chất tốt của mũi. Với mũi thịt trong suốt ấy mà nghe được các hơi trên dưới và trong ngoài đại thiên thế giới, như hơi hoa tu man na, hơi hoa xà đề, hơi hoa mạt lỵ, hơi hoa chiêm bặc, hơi hoa ba la la; hơi hoa sen hồng, hơi hoa sen xanh, hơi hoa sen trắng; hơi các hoa nơi những cây có hoa, hơi các trái nơi những cây có trái; hơi đàn hương, hơi hương trầm thủy, hơi hương đa ma la bạt, hơi hương đa già ra, và hơi của ngàn vạn hương liệu ấy hợp lại thành bột, thành viên, và thành kem. Người kính giữ Pháp Hoa ở đây mà nghe biết rành rẽ cả. Lại nghe biết rành rẽ hơi các loại chúng sinh, đại khái như hơi voi ngựa, hơi bò dê; hơi nam, hơi nữ, hơi đồng nam, hơi đồng nữ. Cỏ cây lùm rừng hoặc xa hoặc gần, có hơi gì cũng nghe được hết, phân biệt không sai. Người kính giữ Pháp Hoa dẫu ở đây mà cũng nghe được các hơi trên chư thiên, như hơi cây ba lỵ chất đa la, hơi cây câu bệ đà ra; hơi hoa mạn đà và đại mạn đà, hơi hoa mạn thù và đại mạn thù; hơi đàn hương, hơi hương trầm thủy, và hơi bột các hương liệu này; hơi các loại hoa xen nhau; và hơi của các loại hơi trên chư thiên này hợp lại phát ra, đều nghe biết cả. Lại nghe hơi thân chư thiên: hơi thân Đế Thích lúc vui thú năm thứ dục lạc nơi Thắng điện, lúc thuyết pháp cho chư thiên Đao lợi nơi Diệu pháp đường, lúc dạo chơi nơi các vườn. Hơi thân nam nữ chư thiên khác cũng xa nghe cả. Tuần tự đến Phạn thế, và lên đến Hữu đỉnh, hơi thân chư thiên các nơi này cũng nghe được cả. Lại nghe hơi các hương liệu được đốt lên của chư thiên. Cho đến hơi các thân thanh văn, thân duyên giác, thân bồ tát và thân Phật đà, cũng xa nghe được, và biết được các thân ấy ở đâu. Tuy nghe hết các hơi như vậy mà tỹ căn không hỏng, và muốn phân tích nói cho người khác thì nhớ không sai. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(22) Người giữ Pháp Hoa

tỹ căn trong suốt,

hơi thơm hơi thối

trong thế giới này,

tất cả các loại

đều ngửi biết cả.

(23) Hơi hoa tu man

và hoa xà đề;

hơi các hương liệu

đa ma la bạt,

đàn hương, trầm thủy,

cùng với hơi quế;

hơi các thứ hoa

và các thứ trái;

(24) hơi bao chúng sinh,

hơi nam, hơi nữ;

người giảng Pháp Hoa

ở xa vẫn nghe

các hơi như vậy

và biết ở đâu.

(25) Các vị luân vương

thế lớn thế nhỏ,

vương tử quần thần

và các cung thân

cũng nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(26) Các thứ vàng ngọc

được mang nơi thân,

các kho vàng ngọc

nằm trong lòng đất,

vàng ngọc nơi thân

bảo nữ luân vương,

cũng nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(27) Những đồ trang sức

nơi thân mọi người,

như là y phục,

vòng hoa, hương xoa,

cũng nghe hơi cả

biết thân ấy.

(28) Chư thiên đi, ngồi,

giải trí, biến hoá,

người giữ Pháp Hoa

nghe hơi biết cả.

(29) Hơi hoa, trái, hạt

của các loại cây,

hơi thơm của bơ,

của các thứ dầu,

người giữ Pháp Hoa

vị trí mình

cũng nghe biết cả

và biết ở đâu.

(30) Ở trong thung lũng

của bao núi non,

mà cây đàn hương

khi hoa nở ra,

cùng với sinh vật

ở những chỗ ấy,

cũng nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(31) Sinh vật ở trong

thiết vi, biển cả,

và cả trong đất,

người giữ Pháp Hoa

cũng nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(32) Nam nữ tu la

thân quyến họ

những khi tranh đấu

hay lúc giải trí,

cũng nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(33) Đồng nội mênh mông

núi rừng hiểm trở,

có những loài thú

loại như sư tử

voi, cọp và sói,

bò rừng, trâu rừng,

cũng nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(34) Bào thai đang mang

chưa phân nam nữ,

chưa biết đủ thiếu

tất cả bộ phận,

chưa rõ là người

hay không phải người,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(35) Cũng vì nghe hơi,

biết thai mới có

thành hay không thành,

thành mà yên ổn

sinh ra có phước

hay là trái lại.

(36) Cũng vì nghe hơi

mà biết nam nữ

nghĩ tưởng những gì:

nghĩ đến dục vọng,

si mê, tức giận;

hay nghĩ sửa mình

theo các pháp lành,

cũng nghe biết cả.

(37) Các loại kho báu

ẩn trong lòng đất,

loại như bạc vàng

và bao thứ quí,

cùng đồ kim khí

chứa những thứ ấy,

đều nghe hơi cả

và biết ở đâu.

(38) Đến như tất cả

các thứ chuỗi ngọc,

không ai biết được

giá trị mức nào,

cũng nghe hơi cả

và biết quí không,

biết cả xuất xứ

cùng với chỗ ở.

(39) Tất cả loại hoa

của trên chư thiên,

như hoa mạn đà

như hoa mạn thù

và hoa của cây

ba lỵ chất đa,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(40) Bao nhiêu cung điện

của trên chư thiên,

cao, thấp, trung bình,

các loại khác nhau,

và bao hoa ngọc

trang hoàng ở đó,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(41) Vườn rừng chư thiên,

tòa nhà Thắng điện,

cùng với lâu đài

tên Diệu pháp đường,

chúa trời Đế Thích

du ngoạn trong đó,

vui thú ngũ dục,

hay là thuyết pháp,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(42) Chư thiên nghe pháp

hoặc hưởng ngũ dục,

qua lại đi đứng

hay là nằm ngồi,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(43) Thiên nữ khoác mặc

những y phục gì,

trang sức hoa đẹp

và hương thơm nào,

du ngoạn giải trí

hay đang ở đâu,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(44-Tuần tự như vậy

45) từ trời Đao lợi

mà lên cho đến

các trời Phạn thế,

tại đây những ai

vào thiền xuất thiền,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

Quang âm, Biến tịnh,

cho đến Hữu đỉnh,

lúc mới sinh ra

hay lúc thoái đọa,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(46) Chúng chư tỷ kheo

và các chúng khác

đối với pháp Phật

thường xuyên tinh tiến:

hoặc là tọa thiền

hoặc là kinh hành,

hoặc đọc hoặc tụng

các loại kinh pháp;

(47) hoặc ở núi rừng

dưới gốc cây lớn,

hết lòng tinh chuyên

ngồi tu thiền quán;

những người kính giữ

Diệu Pháp Liên Hoa

cũng đều nghe hơi

và biết chỗ nào.

(48) Chúng chư bồ tát

trí nhớ vững chắc,

ngồi mà thiền quán

mà đọc hoặc tụng,

hay là giảng nói

kinh pháp cho người,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(49) Khắp mọi quốc độ

chư Phật Như Lai

được bao bộ chúng

tôn kính bao quanh,

các ngài thương tưởng

thuyết pháp cho họ,

cũng được nghe hơi

và biết rõ cả.

(50) Trước chư Phật ấy,

chúng sinh nghe pháp,

vui mừng với pháp,

đúng pháp mà tu,

cũng đều nghe hơi

và biết rõ cả.

(51) Dẫu rằng chưa được

tỹ căn bồ tát _

tỹ căn phát sinh

bởi pháp thuần khiết,

người giữ Pháp Hoa

đã thành tựu trước

những sắc thái này

nơi tỹ căn thường.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoatiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành..., thì được một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của lưỡi. Tốt hay xấu, ngon hay dở, đắng với chát, ở trên lưỡi của người này đều biến thành mùi thượng hạng như mùi cam lộ của chư thiên, không có thứ gì không ngon. Nếu đem lưỡi ấy giảng nói gì ở giữa công chúng đông đảo, thì xuất ra âm thanh sâu xa tuyệt diệu, đi vào con tim, làm cho ai cũng hoan hỷ thích thú. Thiên tử thiên nữ, Đế Thích Phạn Vương, nghe âm thanh sâu xa tuyệt diệu ấy giảng nói rất thứ lớp, nên ai cũng muốn đến làm thính giả; long và long nữ, dạ xoadạ xoa nữ, càn thát bàcàn thát bà nữ, a tu laa tu la nữ, ca lâu laca lâu la nữ, khẩn na lakhẩn na la nữ, ma hầu la dàma hầu la dà nữ, vì nghe pháp mà tất cả cùng đến thân gần, tôn kính, hiến cúng. Tỷ kheotỷ kheo ni, ưu bà tắcưu bà di; quốc vương và vương tử, quần thần, tùy thuộc; tiểu luân vương và đại luân vương, những người trong bảy người vật quí báu, ngàn người con và thân quyến nội ngoại của luân vương,cùng đi xa giá như cung điện của mình mà đến nghe pháp. Pháp sư bồ tát này khéo thuyết pháp nên phạn chí, cư sĩ, và dân chúng cả nước, suốt đời theo hầu và hiến cúng. Chư vị thanh văn, duyên giác, bồ tát, và chư vị Phật đà, thường thích thấy vị ấy. Vị ấy ở phương hướng nào thì chư vị Phật đà xoay lại phương hướng này mà thuyết pháp, và vị ấy có năng lực tiếp nhận ghi nhớ hết các pháp của chư Phật như vậy,lại có năng lực xuất ra tiếng nói sâu xatuyệt diệutuyên thuyết pháp ấy. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(52) Diễn giảng Pháp Hoa

thì lưỡi trong suốt,

không khi nào bị

mùi vị bất hảo.

Người diễn giảng ấy

ăn uống thứ gì

cũng đều biến thành

mùi vị cam lộ.

(53-Thiện dụng tiếng nói

54) sâu xa tuyệt diệu,

người ấy thuyết pháp

ở giữa các chúng;

với những yếu tố

cùng những ví dụ,

người ấy hướng dẫn

tâm trí chúng sinh,

làm cho người nghe

ai cũng hoan hỷ,

và thiết những cách

hiến cúng cao thượng.

(55) Tất cả tám bộ

chư thiên long thần

đem lòng tôn kính

mà đến nghe pháp.

(56) Người thuyết pháp ấy

muốn tiếng tuyệt diệu

lan khắp thế giới,

thì cũng tùy ý

muốn tiếng đến đâu

là đến được liền.

(57) Luân vương lớn nhỏ,

ngàn con, thân quyến,

chắp tay kính trọng

thường đến nghe pháp.

(58) Chư thiên, long chúng

dạ xoa, la sát,

cả tỳ xá xà,

cũng đều hoan hỷ,

thường xuyên vui thích

đến mà phụng sự;

(59) Phạn vương, Ma vương,

Tự tại thiên tử,

Đại tự tại,

chư thiên như vậy

càng thường đến chỗ

người thuyết pháp ấy.

(60) Chư vị Phật đà

cùng với đệ tử

nghe tiếng người ấy

diễn giảng diệu pháp,

thì thường thương tưởng

giữ gìn cho,

có lúc hiện thân

cho người ấy thấy.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoatiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành..., thì được tám trăm phẩm chất tốt của thân.

Người ấy được cái thân trong suốt như khối lưu ly, chúng sinh ai cũng thích nhìn. Vì thân trong suốt nên chúng sinh cả đại thiên thế giới khi sinh khi chết, bậc cao bậc thấp, hoặc đẹp hoặc xấu, sinh chỗ lành sinh chỗ dữ, tất cả đều hiện nơi thân ấy. Thiết viđại thiết vi, di lâu và đại di lâu, những núi như vậy, và sinh vật trong đó, đều hiện nơi thân này. Dưới đến ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đỉnh, bao nhiêu chúng sinh và những gì có trong đó, đều hiện trong thân này. Thanh văn, Duyên giác, Bồ tátPhật đà thuyết pháp, thì những hình ảnh như vậy cũng hiện nơi thân này. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(61) Người giữ Pháp Hoa

thân rất trong suốt,

như khối lưu ly

cực kỳ trong suốt,

các loại chúng sinh

ai cũng thích nhìn.

(62) Như mặt gương sáng

hiện đủ hình ảnh,

chính nơi thân mình

bồ tát pháp sư

thấy hết những gì

thế giới này có_

mình tự thấy rõ,

người không nhìn ra.

(63) Đại thiên thế giới

hết thảy chúng sinh:

chư thiên nhân loại

cùng với tu la,

địa ngục ngạ quỉ

cùng với súc sinh,

bao hình ảnh này

hiện trong thân ấy.

(64) Cung điện chư thiên

từ tầng dưới hết

sắp lên cho đến

tầng trời Hữu đỉnh;

thiết vi, di lâu,

cùng đại di lâu,

và các đại dương

cùng bao dòng nước,

đều hiện hình ảnh

nơi trong thân ấy.

(65) Chư vị Phật đà

cùng với Thanh văn

và bao con Phật

là các Bồ tát,

mà lúc đơn độc

hay lúc thuyết pháp

ở giữa các chúng,

đều hiện trong đó.

(66) Dẫu rằng chưa được

cái thân mầu nhiệm

là thân pháp tánh

tuyệt đối thuần khiết,

chỉ là cái thân

thường và trong suốt

mà bao hình ảnh

đều hiện trong đó.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoatiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành..., thì được một ngàn hai trăm phẩm chất tốt củûa ý. Với ý trong suốt như vậy thì đến nỗi chỉ nghe một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa cũng thông suốt nghĩa lý vô biên. Thông suốt như vậy rồi lại có khả năng giảng nói một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa ấy đến một tháng, bốn tháng, cho đến cả năm, và những gì người này giảng nói thì vì ý nghĩa hướng về thật tướng, nên không trái ngược với thật tướng ấy. Người này nếu phải nói đến học thuyết thế gian, lý thuyết chính trị, công nghiệp dân sinh, và những gì cùng loại, thì cũng biết nói cho hợp với Phật pháp. Cả đại thiên thế giới, sáu loài chúng sinh nghĩ gì, nghĩ để làm gì, nghĩ để bàn gì, người này biết hết. Dẫu chưa được tuệ giác thuần khiết, ý của người này đã trong suốt đến như thế ấy. Người này nghĩ gì, tính gì, và nói gì, cũng đều trung thực với pháp của Như Lai đã dạy chứ không có gì không trung thực, lại cũng trung thực với pháp đã được nói đến trong kinh của các đức Phật trước. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(67) Người giữ Pháp Hoa

thì ý trong suốt,

lanh lợi thông minh

không có vẩn đục.

Chính do cái ý

tuyệt diệu như vậy,

biết hết các pháp

cao, thấp, trung bình.

(68) Đến nỗi chỉ nghe

một bài chỉnh cúù

mà cũng thông đạt

vô lượng nghĩa ý,

lại còn tuần tự

diễãn đạt chính xác

suốt trong một tháng

một mùa, cả năm.

(69) Toàn thể trong ngoài

đại thiên thế giới,

các loại chúng sinh

như trời với người,

dạ xoa, quỉ thần,

và bao loài khác,

(70) tất cả sáu loài

nghĩ tưởng những gì,

thì cái quả báo

người giữ Pháp Hoa

là trong một lúc

mà biết rõ cả.

(71) Vô lượng Phật đà

khắp cả mười phương _

những bậc tướng quí

trăm phước trang nghiêm,

tuyên thuyết diệu pháp

cho bao chúng sinh,

người này nghe, nhận,

và nhớ được cả.

(72) Lại suy nghĩ ra

rất nhiều nghĩa ý

và diễn nói được

trong nhiều thì gian,

nhưng đầu đến cuối

không quên không lầm.

Kính giữ Pháp Hoa

nên được như vậy.

(73) Biết hết chi tiết

của các diệu pháp,

biết theo ý nghĩa

mà thấy thứ tự,

biết rành ngữ văn

và cách diễn đạt,

người ấy diễn giảng

đúng như đã biết.

(74) Người như thế này

diễn giảng những gì,

không những trung thực

với pháp Như Lai,

mà còn trung thực

với pháp Phật trước;

và chính là vì

diễn giảng pháp ấy,

nên giữa các chúng

không e sợ gì.

(75) Người nào kính giữ

Diệu Pháp Liên Hoa

thì được cái ý

trong suốt đến thế,

nên tuy chưa được

tuệ giác thuần khiết

mà đã có trước

những sắc thái trên.

(76) Người này kính giữ

Diệu Pháp Liên Hoa,

thế là đứng nơi

vị trí hiếm có,

được bao chúng sinh

hoan hỷ kính mến,

và có năng lực

vận dụng ngàn vạn

những cách diễn đạt

rất là khéo léo,

phân tích thuyết pháp

cho bao chúng sinh.

Ấy là toàn nhờ

kính giữ Pháp Hoa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23603)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24754)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18989)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24764)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30975)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23990)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26514)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21316)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23228)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38135)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19048)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23172)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23881)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22807)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22912)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29574)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18710)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18859)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19683)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20155)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18119)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22942)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16918)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39249)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26077)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18858)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24063)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22903)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30965)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21010)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26853)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23325)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24682)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20224)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20405)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15839)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23900)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant