Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Phẩm Giới Hạnh Ðầy Ðủ

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8470)
7. Phẩm Giới Hạnh Ðầy Ðủ

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Giới Hạnh Ðầy Ðủ, thứ 7

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ lại bạch Phật rằng:

-Thật hy hữu đức Thế Tôn! Lại có tam muội tối thù thắng này. Bạch đức Thế Tôn! Nếu chư Bồ Tát bỏ nhà mà đi xuất gia, thâm tâm muốn thuyết và hay suy tư tam muội này, thì phải an trụ trong pháp nào để hay giảng nói và quán sát?

Phật bảo Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, thâm sâu mến thích giảng rộng, lại muốn suy tư tam muội này, thì Bồ Tát xuất gia đó trước hết phải hộ trì giới hạnh thanh tịnh, giới hạnh chẳng khiếm khuyết, giới hạnh chẳng nhiễm dơ, giới hạnh chẳng ô trược, chẳng chấp giới hạnh, giới hạnh chẳng động, giới hạnh chẳng bị quở trách, giới hạnh được các bậc hiền trí khen ngợi, giới hạnh được hiền thánh mến phục. Phải nên niệm biết những giới hạnh như thế.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó làm sao được giới thanh tịnh, cho đến giới hạnh được chư hiền thánh mến phục?

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó phải y theo giới Biệt Giải Thoát, thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh lành, cho đến thành tựu giới hạnh số nhiều như hạt bụi. Người nhìn đều kính nể cuộc sống thanh tịnh đó. Trong các giới hạnh thường nghĩ nhớ phải thành tựu. Phải tin sâu, chẳng được chấp trước. Lúc nghe pháp Không, vô tướng, vô nguyện, tâm không sợ hãi, không hối hận, lui sụt.

Này Hiền Hộ! Do nhân duyên đó, Bồ Tát xuất gia thành tựu giới hạnh thanh tịnh như thế, chẳng thấy giới hạnh, chẳng chấp trước giới hạnh, cho đến thành tựu giới hạnh được chư thánh mến phục.

Khi ấy, Hiền Hộ bạch Phật rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Giới hạnh của Bồ Tát xuất gia đó sao lại chẳng thanh tịnh, giới hạnh thiếu sót, giới hạnh nhiễm trước, giới hạnh ô trược, giới hạnh ỷ lại, giới hạnh mà người trí quở trách, giới hạnh không được chư thánh mến kính?
Phật bảo:

-Này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát xuất gia chấp trước hình tướng, thọ trì giới cấm, tu nơi phạm hạnh; cứ như thế chấp giữ thọ, chấp giữ tưởng, chấp giữ hành, chấp giữ thức, mà thọ trì cấm giới, tu phạm hạnh, rồi suy nghĩ rằng: “Nay tôi trì giới, hành khổ hạnh, tu học phạm hạnh như vầy. Nguyện đời sau được sanh lên các cõi trời hoặc sanh làm người, tự tại tái sanh thọ các quả báo lành”. 
Này Hiền Hộ! Do nhân duyên đó, Bồ Tát xuất gia này thành tựu giới hạnh chẳng thanh tịnh, cho đến giới hạnh mà chư thánh không mến kính. Ðó gọi là vì cầu có, vì có sanh, vì thọ quả báo dục lạc, vì có chỗ sanh.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó nghĩ muốn thuyết tam muội này, muốn suy tư tam muội này, trước hết phải nên đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, cho đến thành tựu giới hạnh được chư thánh kính mến, cũng niệm thường hành Bố Thí Ba La Mật, đó gọi là hạnh bố thí thù thắng, bố thí pháp, bố thí vi diệu, bố thí thật vi diệu, bố thí tinh tấn vi diệu, bố thí vô thượng, cũng thường dũng mãnh tinh tấn không dừng, chẳng bỏ trọng trách, chẳng mất chánh niệm, thường hành nhất tâm, chánh tín thanh tịnh chẳng có ganh tỵ, chẳng đắm trước thế gian lợi dưỡng danh tiếng, khất thực như pháp để nuôi thân mạng, mãi hành hạnh khất thực, chẳng nhận thỉnh riêng, xa lìa nhàm chán người đời, vui chốn A Lan Nhã, tôn sùng hạt giống thánh, kính hạnh đầu đà, dừng lời thế gian, nhưng luận việc xuất thế, đến nơi thanh vắng, điềm nhiên, chẳng nói lời giả dối, thường kính trọng người khác mà không khinh khi, trong mọi thời thường hành hạnh tàm quý, mang ơn thì biết ơn, biết rồi thì đền ơn; đối với thiện tri thức thường nhớ thân cận; không trái nghịch lời dạy của các bậc tôn sư; nếu nghe kinh điển thâm sâu như vầy, thường chuyên tâm lãnh thọ quyết không nhàm chán; đối với các vị pháp sư khởi tâm kính trọng như cha hiền, như bậc thiện tri thức, cho đến như chư Phật. Do nhờ Phật pháp vi diệuthành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng, nên khiến tăng thêm tâm kính mến tôn trọng.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát hoặc có lúc đến chỗ các hàng Thanh Văn, nghe thuyết kinh pháp thâm sâu như thế mà đối với vị pháp sư kia không có tâm kính mến, không có tâm tôn trọng, không khởi tưởng như cha hiền, không khởi tưởng như bậc thiện tri thức, không khởi tưởng như chư Phật, không khởi tưởng như thầy giáo, không thể gần gũi hầu hạ cúng dường, thì ở nơi nào mà được nghe kinh? Phải biết người đó không thể lãnh thọ, viết chép, giải thích khiến chánh pháp được trụ thế dài lâu. Kẻ đó nếu hay thọ lãnh, biên chép, giải thích khiến chánh pháp trụ thế dài lâu, thì không có lẽ nào vậy. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát hoặc đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe giảng về pháp tăng thượng vi diệu này mà chẳng sanh tâm cung kính, chẳng sanh tâm tôn trọng, cho đến chẳng sanh kính như Phật, không thể tận tâm gần gũi cúng dường, nếu hay đọc tụng thọ trì giải thích khiến kinh điển này không chóng bị hoại diệt, thì không thể có điều đó. Vì sao? Vì không tôn trọng kinh điển này, nên pháp này chẳng bao lâu sẽ bị diệt mất.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát hoặc đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe giảng về kinh điển vi diệu này, mà sanh tâm kính mến, sanh tâm tôn trọng, lại khởi tâm xem như thầy giáo, xem như đức Phật, gần gũi hầu hạ cúng dường, có thể lãnh thọ, viết chép, giải thích, khiến kinh này được lợi lạc trụ lâu dài trên thế gian, thì là có lý.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát đó đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe giảng về kinh điển vi diệu này, mà liền khởi tâm tôn trọng, tưởng như chư Phật, gần gũi hầu hạ cung kính cúng dường. Người này tuy chưa tu học kinh điển này, mà đã tu tập; tuy chưa giải thích được, nhưng đã giải thích, khiến diệu pháp được trụ lâu dàithế gian, không bị đoạn diệt, là có thể được. Vì sao? Vì hay kính mến tôn trọng chánh pháp, nên kinh này được trụ thế dài lâu.

Này Hiền hộ! Do nhân duyên đó, nên nay Ta bảo ông rằng người đó ở nơi thuyết pháp sư, sanh tâm mến thích, sanh tâm cung kính, sanh tâm quý trọng, xem như thiện tri thức, xem như thầy giáo, xem như chư Phật, tận tâm hầu hạ cung kính cúng dường.

Này Hiền Hộ! Nếu làm được như thế thì gọi là hành những hạnh mà Ta đã hành, thọ những lời Ta đã răn dạy.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó tất muốn giải thích tam muội này, lại muốn suy tư tam muội này, nên thường thích làm những việc ở nơi A Lan Nhã, không nên sống ở lành xóm thành ấp, xa rời bạn xấu và những chỗ nhiều mong cầu, chẳng tham ăn mặc, chẳng tích trữ lương thực, chẳng nhận tiền tài của cải, chẳng tham cầu danh thơm lợi dưỡng, chẳng tiếc thân mạng, thường nghĩ xả thân, xa rời tham trước, hằng tu quán tưởng cái chết, thường hành tàm quý, chẳng tạo các điều xấu, nhiếp thọ chánh pháp, tâm không nghi ngờ, thường niệm xả rời, chẳng chấp giữ các tướng, nên tu tâm từ, chớ giữ tâm ganh ghét oán thù, thường khởi tâm từ bi, không hành theo sân hận, an tân vui vẻ, chớ tưởng thương ghét, thường đi kinh hành, phá trừ sự che chướng của ngủ nghỉ.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia nếu hay an trụ pháp hạnh như thế, thì hay tu học, giải thích, suy tư tam muội Niệm Phật Hiện Tiền này.

Lúc đó, Bồ Tát Hiền Hộ lại bạch Phật rằng:

-Thật hy hữu, đức Thế Tôn! Những lời đức Như Lai thuyết về kinh điển thâm sâu vi diệu đó, thật rất thù thắng, thật vi diệu thù thắng, không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, chư Bồ Tát đời sau còn giãi đãi làm biếng ỷ lại, tuy nghe kinh điển vi diệu thâm sâu này, nhưng khởi tâm sợ hãi, hoảng hốt nghi ngờ, thối thất lớn lao, không thể phát tâm vui vẻ mến thích. Họ sẽ nghĩ rằng: “Nay tôi sẽ tu tập kinh điển của chư Phật ở cõi khác. Vì sao? Tôi nay tự biết có nhiều chướng nạn, thân ngu bịnh khổ khí lực yếu ớt, thì làm sao kham nổi tu hành theo kinh điển này?”

Bạch đức Thế Tôn! Những kẻ đó đối với pháp thâm sâu lại sanh tâm xa rời buông xả, không thể phát tâm chuyên cần dũng mãnh tinh tấn, mến thích thành tựu y theo kinh điển này.

Bạch đức Thế Tôn! Khi đó cũng có chư Bồ Tát tinh tấn cần cầu, mến thích pháp này, phụng trì pháp này, nhiếp thọ pháp này. Nếu các pháp sư thuyết pháp này, thì họ y theo lời dạy mà hành trì, hay xả thân mạng, chẳng chấp danh lợi quyền quý, chẳng cầu lợi dưỡng, chẳng tự rao bán công đức của mình, chẳng đắm nhiễm y bát, chẳng vui ở thành ấp, thường đến chỗ thanh nhàn núi rừng tịch tĩnh; vừa nghe qua pháp bảo vi diệu này thì vui mừng hớn hở, lại thường phát tâm tinh cần tu tập đầy đủ; lãnh thọ pháp môn vi diệu này, thường đọc tụng, nên thường trì niệm, suy tư nghĩa lý, nên như lời dạy mà thực hành. Trong tương lai, nơi chư Phật, họ không cầu đa văn trực tiếp, cũng chẳng cầu nơi chốn, chỉ vì thành tựu công đứcthường niệm chuyên cần tinh tấn dũng mãnh.

Bạch đức Thế Tôn! Những người đó xưa kia đã từng chư Phật, tích lũy các căn lành. Những trai hiền gái thảo đó phát tâm tinh tấn lớn lao vì nghe được pháp vi diệu này, lại phát nguyện trang nghiêm lớn: “ Con nguyện rằng dù cho thân này khô tiệt đói khát, xương tan thịt nát, lửa bỏng thiêu đốt, nhưng vẫn không ngừng hành khổ hạnh, vì muốn thành tựu theo kinh điển vi diệu này, quyết không tạm thời làm biếng giãi đãi ỷ lại, mà không nghe chánh pháp vi diệu thù thắng này, cũng chẳng không suy gẫm nghĩa lý thâm sâu, lại chẳng bỏ người khác mà không giảng giải, nhưng thường dũng mãnh tinh tấn, vì muốn nhiếp thọ chư Bồ Tát; nghe kinh điển vi diệu này của đức Như Lai, nghe rồi sanh tâm vui mừng lớn lao.

Bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi đại Bồ Tát Hiền Hộ
-Lành thay, lành thay, này Hiền Hộ! Ðúng như thế, đúng như thế! Như lời ông nói, Ta nay tùy hỷ.

Này Hiền Hộ! Do Ta tùy hỷ nên hết thảy ba đời hằng hà sa số chư Phật cũng tùy hỷ.

Lúc ấy, Bồ Tát Hiền Hộ bạch Phật rằng:
-Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát tại gia ở trong thế gian nghe tam muội này, muốn tự suy tư, tức có thể giải thích cho người khác, cho đến một ngày hoặc qua một đêm, người này an trụ hạnh pháp gì để được suy tư thành tựu tam muội này, rồi giảng nói cho người khác nghe?

Phật dạy:
-Này Hiền Hộ! Bồ Tát tại giathế gian đó, nếu muốn tu tập suy tư tam muội này, hoặc một ngày một đêm, cho đến trong một khoảng vắt sữa trâu, Ta nay nói cho ông nghe, người đó ở thế gian thường nên chánh tín chẳng khởi tham sân, thường nghĩ việc bố thí tùy theo của ít nhiều, nên bố thí tất cả mà chẳng mong cầu quả báo, nên quy y Phật, Pháp, Tăng, chẳng theo thiên thần, cũng chẳng lễ lạy họ, chẳng sanh tâm đố kỵ, thường niệm tùy hỷ, thường sinh sống thanh tịnh y theo chánh pháp, chẳng mến con gái, chẳng đắm vào phụ nữ, chẳng chấp trước vợ con, chẳng nhiễm nhà cửa, chẳng tích tụ tài sản châu báu, thường mến xuất gia, nghĩ việc cắt tóc, tu tám giới quan trai, hằng trụ ở ngôi già lam, tâm thường hoài tàm quý, phát tâm Bồ Ðề, chẳng nghĩ thừa khác, thấy tỳ kheo trì giới thanh tịnh tu phạm hạnh quyết không giỡn cợt mà thường hành cung kính; nếu có theo ai nghe học tam muội này thì khởi tâm kính mến vị pháp sư đó, khởi tâm tôn trọng, xem như thiện tri thức, xem như thầy giáo, xem như đức Phật, có thể cung phụng tất cả, thường nhớ ơn, hằng nghĩ cách báo ơn vì được dạy pháp vi diệu này.

Này Hiền Hộ! Lúc ở nhà, Bồ Tát tại gia phải trụ theo pháp như thế mà hành, rồi sau dạy lại tam muội đó, phải suy tư như thế, tu tập như thế.

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ bạch Phật rằng:
-Hy hữu thay, đức Thế Tôn! Hôm nay Ngài vì Bồ Tát xuất giatại gia, chánh tín thành tựu mến thích Phật pháp thâm sâu, mà tuyên thuyết diệu pháp vô thượng như vầy, để khiến họ an trụ vô số hạnh pháp như thế, rồi sau này sẽ suy tư, giải thích tam muội này. 

Bạch đức Thế Tôn! Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, tam muội này có thể được lưu truyền rộng rãi ở cõi Diêm Phù Ðề chăng? 

Phật bảo Hiền Hộ:
-Này Hiền Hộ! Sau khi Ta diệt độ, ở cõi Diêm Phù Ðề, kinh điển tam muội này trong bốn mươi năm sẽ được lưu truyền rộng rãi, rồi cuối năm trăm năm sau lúc con người sống trăm tuổi và chánh pháp đã diệt, thời của các tỳ kheo ác hạnh, thời thường phỉ báng chánh pháp, thời sự trì giới đã giảm sút, thời sự phá giới hưng thạnh, thời các quốc gia gây chiến tranh với nhau, thì sẽ có chúng sanh vẫn còn căn lành vì xưa kia đã từng gần gũi chư Phật, cúng dường tu hành, trồng các hạt giống lành; những đại trượng phu này sẽ được kinh điển này, và tam muội đây cũng sẽ được lưu truyển khắp cõi Diêm Phù Ðề; đó gọi là do oai thần gia trì của chư Phật, nên khiến cho họ được nghe biết kinh điển này; nghe rồi họ vui mừng biên chép, đọc tụng, thọ trì, suy tư nghĩa lý, rồi giảng giải cho người khác nghe, và y theo lời dạy mà tu hành.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ và các người Bảo Ðức Ly Xa, nghe Phật thuyết về lúc chánh pháp bị diệt, nên rơi lệ như mưa, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay cung kính bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nguyện rằng năm trăm năm sau khi đức Như Lai diệt độ, thời con người sống trăm tuổi, thời sa môn điên đảo, thời chánh pháp sắp diệt mất, thời hủy báng chánh pháp, thời phá hoại chánh pháp, thời sự trì giới giảm thiểu, thời phá giới tăng trưởng, thời các hộ pháp chánh pháp giảm, thời kẻ hộ tà pháp tăng, thời chúng sanh ô trược lầm loạn, thời các nước giao tranh, đối với kinh điển tam muội vi diệu do đức Như Lai thuyết ra, chúng con sẽ thọ trì, đọc tụng, suy tư nghĩa lý, giải thích cho người khác. Vì sao? Vì đối với diệu pháp này, tâm của chúng con không nhàm chán, quyết không biết đủ, nên hay nghe, hay viết chép, hay đọc tụng, hay thọ trì, hay suy tư, hay tu hành, hay diễn thuyết rộng kinh điển do đức Như Lai thuyết này.

Lúc đó, con của cư sĩ thương chủ Ca Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, v.v… nghe Phật nói về thời chánh pháp bị hoại diệt, nên vì chánh pháprơi lệ nức nở, và từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cung kính chấp tay, bạch Phật rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Ðối với kinh điển vi diệu do đức Như Lai thuyết, chúng con hay thọ trì, nhiếp thọ bảo hộ để chánh pháp được phát triển. 

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con sẽ hộ trì kinh điển vi diệu do đức Như Lai thuyết này, khiến cho kinh điển được rộng tuyên, lưu hành rộng rãilâu dàithế gian. Vì sao? Nếu kinh điển này được lưu hànhthế gian suốt vô lượng a tăng kỳ kiếp thì có nhiều chúng sanh sẽ y theo đó mà hành trì, thành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp chưa từng nghe, chí tâm thọ trì, suy tư nghĩa lý, giải thích cho người khác, lưu hành rộng rãi.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nay nghe kinh điển vi diệu thâm sâu này, mà tất cả mọi người trên thế gian đều không tin. Vì vậy, trước hết chúng con sẽ vì họ mà tạo căn lành pháp khí, rồi sau đó mới giải thích cho họ nghe.

Bấy giờ, trong đại chúng có năm trăm vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam cư sĩ nữ, nghe đức Như Lai nói về thời chánh pháp bị hoại diệt, nên vì chánh pháprơi lệ như mưa, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cung kính chấp tay bạch Phật rằng:

-Chúng con sẽ thọ trì chánh pháp của đức Như Lai. Tuy nhiên, lúc đó chúng con xin chư vị đại sĩ thiện trượng phu hãy làm nơi chúng con y theo, hãy bảo bọc gia hộ, để đối với kinh điển vi diệu thâm sâu do đức Như Lai thuyết này, chúng con có thể giữ gìn nghĩa lý chân thật rồi y theo pháp mà hành trì. Cúi xin đức Thế Tôn phó chúc chúng con cho các vị thiện trượng phu rõ ràng. Vì sao? Bạch đức Thế Tôn! Chúng con và các vị đó có thể thọ trì giữ gìn chánh pháp.

Lúc đó, đức Thế Tôn liền nở nụ cười, phóng ánh hào quang vàng ròng. Hào quang đó bay khắp các cõi Phật trong mười phương, rồi trở về nhiễu quanh Phật ba vòng, và nhập vào đảnh của Ngài.
Lúc ấy, tôn giả A Nan suy nghĩ rằng: “Xưa nay đức Thế Tôn cười rất nhiều lần, nhưng những lần đó đều có lý do. Ta nay thỉnh hỏi nhân duyên mỉm cười của Ngài”, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay hướng Phật, dùng kệ thỉnh hỏi rằng:

“Tâm Ngài thanh tịnh, hạnh không dơ
oai đức lớn, thần thông cao
Trên các bậc tối tôn ở đời
Hiển hiện vô cấu như vầng trăng
Thánh trí vô ngại, tâm giải thoát
Ca Lăng Tần Già, Trời Tối Tôn
Tất cả dị luận không thể động
Ðột nhiên mỉm cườinhân duyên
Thông đạt chánh chân, vì con thuyết
Hay nhiều lợi lạc, Lưỡng Túc Tôn
Nghe âm thanh vi diệu của Phật
Tất cả đều vui mừng lớn lao
Chư Phật đâu từng cười vô cớ
Phật lại phóng quang thắng hơn người
Ai hôm nay được lợi ích lớn?
Nên nay phải cười để chỉ bày
Ai nay đây chứng đắc chân thật?
Ai nay đây làm đấng pháp vương?
Ai nay đây tự làm quán đảnh?
Ai nay đây lên quả vị Phật?
Ai nay đây làm lợi cõi đời?
Ai sẽ tuyên hết tạng Phật pháp?
Ai nơi Phật trí được thường trụ?
Nên Thế Tôn ứng duyên mỉm cười”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ trả lời:

“A Nan, thấy đại chúng đây không?
Nhiếp hộ năm trăm từ tòa dậy
Thân tâm hoan hỷ phát tín thành
‘Chúng con sau này được pháp này’
Họ nhất tâm chiêm ngưỡng đức Phật
Ta vào lúc nào cũng như vậy
Ðồng ở trước Ta phát nguyện lớn
‘Chúng con đời sau chứng đạo này’,
Lại có tám người từ tòa dậy
Ðứng đầu tối tôn trong năm trăm
Họ ở trong thời mạt pháp sau
Vì người đời tuyên thuyết pháp này
Ta nay bảo ông lời như vầy
Trong đại chúng đây trí vô ngại
Họ chẳng phải ở một chỗ Phật
Ðứng dậy chấp tay kính Thế Tôn
Ta quán xưa kia vô lượng đời
Tám muôn chư Phật đồng thời hiện
Tám người dẫn đầu từ tòa dậy
Lại vì hộ trì diệu pháp này
Trước tám muôn ức do tha
Lại ở trước vô số chư Phật
Tâm được giải thoát, danh đức vang
Khi ấy họ cũng đã nhiếp trì
Nay lại ở trong thắng pháp Ta
Hay đứng đầu nhiếp hộ làm lợi
Giáo hóa vô số chúng Bồ Tát
Những đại nhân đoạn trừ ganh ghét
Họ sau khi Như Lai diệt độ
Nhặt xá lợi Ta, hưng cúng dường
Khéo trì các Phật sự của Ta
An trí xá lợi khắp mười phương
Dựng tháp đất bằng hay trên núi
Phó chúc trời rồng và xí điểu
Họ lại nương y vào kinh này
Mất đi đều được sanh lên trời
Sau tuy chuyển xuống làm người
Mà thường chẳng rời dòng quý phái
Khéo trì pháp Bồ Ðề của Ta
Lại phát nguyện lớn tùy bản tâm
Lúc thì vì pháp đến xứ khác
Hằng trồng kinh thâm sâu vi diệu
Sẽ ban truyền pháp cho nhiều người
Dùng tâm vui vẻ trừ ganh ghét
Cầu pháp chân thành không làm biếng
Khinh tiền tài, nói gì mến thân
Hàng phục hết thảy ngoại luận sư
Thường đem diệu pháp huệ thí người
Lúc đời không ai thọ kinh này
Cũng không đọc tụng dạy lại người
Chỉ có năm trăm hiền sĩ đây
Nay ở trước Ta từ tòa dậy
Lại tám đại sĩ Bồ Tát này
Tương lai truyền pháp ở Bắc Thiên
Hằng vui rộng tuyên nhiều lợi lạc
Hoằng truyền kinh điển thâm sâu này
Tám chánh đại sĩ làm thượng thủ
Số năm trăm này lại không tăng
Xa rời ganh ghét xả danh lợi
Tương lai hoằng truyền rộng pháp lớn
Những tỳ kheo cùng tỳ kheo ni này
Các cư sĩ nam, cư sĩ nữ
Trí khéo không ganh đăng pháp sư
Sẽ thành chánh giác đại oai đức
Ðủ thần đức không thể nghĩ bàn
Thể tướng trăm phước đức trang nghiêm
Ðược vui vi diệu trừ các khổ
Lâu nhổ gốc ba độc phiền não
Họ từ nay xả bỏ thân mạng
Quyết chẳng sanh trong các đường ác
Trong tất cả đời thường hòa hợp
Gặp đạo Bồ Ðề pháp tối thắng
Nên xả tất cả cõi xấu xa
Cũng hay mãi rời những chỗ nạn
Không thể biết ngần mé công đức
Thọ nhiều phước vô lượng như thế
Lại sẽ được gặp Phật Di Lặc
Nơi Phật thường khởi tâm hòa hợp
Cung kính cúng dường làm lợi người
Vì chỉ cầu Bồ Ðề vô thượng
Khi ấy bọn họ thường vân tập
Hầu hạ đức Phật Lưỡng Túc Tôn
Vì Bồ Ðề vi diệu chư Phật
Sẽ vượt sanh tử, lên bờ giác
Thời mạt thế pháp bị hoại diệt
Họ vẫn thường thọ trì pháp này
Ở nơi xứ sở thường tu hành
Gặp thời Phật Di Lặc hầu cận
Và họ trong đời Hiền Kiếp này
Rộng làm đuốc sáng lợi cho đời
mọi nơi họ thường hộ kinh
An trụ ba đời không khiếp sợ
Tương lai ức số nhiều chư Phật
Không thể nghĩ bàn khó biết hết
Họ đều cúng dường rộng tu hành
Thường hộ Phật sự thù thắng này
Có ai thành Bồ Ðề trước mặt
Mỗi mỗi đều đồng tu cúng dường
Mà hoặc muốn diệt độ trước hết
Ta trụ nhiều đời na do tha
Nay đây đại Bồ Tát Hiền Hộ
Cũng là bảo đức châu xuất gia
Thương chủ Ngật Ða Ca Ma Na
Thường gặp hằng sa vô số Phật
Nơi đó cũng thọ kinh vô thượng
Xưa đã qua nhiều số kiếp
Giỏi toán không thể tính hết được
Vô lượng ức kiếp ai hay biết
Nếu có chúng sanh được nghe danh
Hoặc lúc thức hoặc khi mộng mơ
Phát tiếng sư tử rống dũng mãnh
Họ làm tối tôn trong trời người
Nếu có chúng sanh nghe danh họ
Thẳng hay tín kính và tùy hỷ
Tất cả làm Phật không nghi ngờ
Hà huống cúng dường nơi thân họ
Pháp họ thọ không thể nghĩ bàn
Thọ mạng pháp trụ cũng vô lượng
Lợi ích rộng lớn không cùng tận
Công đức trí huệ cũng khó biết
Họ xưa nơi Phật khó suy lường
Thanh tịnh trì giới hằng sa số
Họ hành bố thi rộng trước Phật
Chỉ cầu Phật Bồ Đề vô thượng
Công đức họ không thể tính đếm
Nhiều kiếp tuyên thuyết không cùng tận
Trong đạo Bồ Ðề không tăng giảm
Thường niệm hộ trì kinh điển này.
A Nan nếu ai hộ kinh này
Viết chép đọc tụng và ghi nhớ
Ông nên quyết định sanh cung kính
Quyết chẳng rời năm trăm người này.
A Nan nếu ai trì kinh này
Tự sẽ chuyên tâm cầu kiên cố
Thanh tịnh cấm giới xả ngủ nghỉ
Quyết định đắc diệu tam muội này
Trong luật Ta thuyết Mộc Xoa
Các tỳ kheo học ở Lan Nhã
Nếu hành Đầu Đà chẳng xả bỏ
Ðắc được tam muội này không nghi
Tất cả thỉnh riêng hay xả hết
Nếu là mỹ vị đều đoạn trừ
Hầu thầy thường xem như chư Phật
Ai nói chẳng chứng tam muội này!
Họa tham sân si trước giác biết
Ngã mạn ganh tỵ đều xa rời
Tình không ô uế, niệm vô vi
Ðọc tụng tư duy thắng tam muội
Ý thanh tịnh, chỗ không thể nhiễm
Ðiều phục các căn ngừng oan khiên
Nhất tâm chuyên niệm thân Như Lai
Ðọc tụng thọ trì diệu tam muội
Nếu có Bồ Táttại gia
Tâm thường giữ vững việc xuất gia
Thọ trì đọc tụng khẩu nghiệp thành
Tâm thường niệm giác tam muội này
Hằng hay tu trì năm loại giới
Thọ nhiều lần giới tám quan trai
Thường ở chùa chiền bỏ đời tư
Ðọc tụng suy tư tam muội này
Chẳng đam mê đắm trước phụ nữ
Chớ thương gái nhỏ và tiền tài
Hàng cư sĩ nam thường tàm quý
Hãy nên ghi nhớ tam muội này
Chớ khởi tâm hãm hại người khác
Chỉ nhớ trừ bỏ sự đùa cợt
Không nơi đắm chấp, trụ trong nhẫn
Mà niệm suy tư tam muội này
Chớ chấp trước vào các tài sản
Hương hoa son phấn tóc mượt mà
Không nơi nhiễm trước an trụ nhẫn
Mà thường thọ trì tam muội này
Nếu tỳ kheo ni cầu kinh này
Thường cần quy kính trừ đố kỵ
Giỡn cợt cống caongã mạn
Chứng Bồ Ðề này cũng không khó
Nên phát tinh tấn trừ ngủ nghỉ
Tất cả dục cầu đều đoạn hết
Tâm mến thích pháp giữ tịnh mạng
Chỉ hay đọc tụng tam muội này
Tâm thường chẳng cùng chung tham dục
Chớ khởi sân hận, không bức não
Chẳng dùng dây ma trói chúng sanh
Chỉ nên thọ trì tam muội này
Chẳng làm theo những điều cong vạy
Chớ tham y đẹp và đồ thơm
Chớ nói hai lưỡi tách biệt người
Chỉ nên thọ trì tam muội này
Thanh sắc nam nữ chẳng rộn tâm
Lặng dứt không còn các tà niệm
Với thầy mình xem như chư Phật
Chỉ nên thọ trì tam muội này
Nơi sanh vĩnh viễn rời đường ác
Trong Phật pháp chẳng tin rỗng tuếch
Phá trừ ba cõi các chướng nạn
Nên thường thọ trì tam muội này”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27173)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21765)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20048)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24741)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18984)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30971)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23982)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26508)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21305)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18434)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19953)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19040)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29565)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19655)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20149)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18114)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16416)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26060)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18847)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29118)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30947)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26258)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24669)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30029)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant