Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phẩm Quán Sát

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8727)
6. Phẩm Quán Sát

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Quán Sát, thứ 6

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát muốn tư duy tam muội này, thì phải làm sao? 
Này Hiền Hộ! Bồ Tát đó phải tư duy như vầy: “Ðức Thế Tôn của tôi đang thuyết pháp trước hàng trời người”. 

Này Hiền Hộ! Bồ Tát nhất tâm tư duy như vầy: “Chư Phật Như Lai ngồi tòa sư tử tuyên thuyết chánh pháp, thành tựu đầy đủ tất cả tướng hảo, tối vi diệu tối thù thắng, đoan nghiêm, đáng mến nhìn không chán”. Chí tâm quán sát các tướng hảo lớn như thế, tức thấy rõ ràng tường tận mỗi mỗi đức tướng của chư Như Lai; đã thấy rồi bèn thỉnh hỏi tướng nhục đảnh. Ðã hỏi rồi lại quán sát những tướng hảo khác rõ ràng tường tận, và suy tư: “Tướng hảo vi diệu của chư Phật thật là hy hữu. Xin nguyện đời sau con được thành tựu đầy đủ thân tướng hảo như chư Phật. Xin nguyện đời sau con thành tựu đầy đủ oai nghi giới đức thanh tịnh. Xin nguyện đời sau con thành tựu đầy đủ tam muội này. Xin nguyện đời sau con được trí huệ viên mãn như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được giải thoát viên mãn như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được giải thoát tri kiến như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được tướng hảo viên mãn như chư Phật, chứng quả Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chứng quả vị Phật rồi, con cũng tuyên thuyết tất cả diệu pháp giữa hàng trời người như chư Phật”.

Bồ Tát quán sát chư Phật đầy đủ như thế, cho đến thành tựu tất cả pháp quán sát. Sau đó, lại suy tư rằng: “Trong đây gì là bản ngã, gì là pháp của ngã sở, ai sẽ chứng quả vị Phật, Bồ Đề? Tâm sẽ chứng đắc ư? Thân sẽ chứng đắc ư? Thân vốn ngang ngạnh, vô tri, vô giác, vô thức, vô phân biệt, vô tác giống như cỏ cây, ngói đá, gương kính, còn đạo Bồ Ðề thì không sắc, không hình, không ảnh tượng, không tướng mạo, không thể thấy biết, không thể cảm xúc biết, thì làm sao nương vào thân đó mà tu hành chứng quả Bồ Ðề như thế? Trong đó ai có thể chứng đắc được? Nếu do tâm chứng đắc, thi tâm vốn vô hình sắc, không thể thấy biết được, đồng như huyễn hóa. Quả Bồ Ðề thì cũng không có hình sắc để có thể thấy biết, vô lậu, vô vi, và đồng như huyễn hóa, thì làm sao chứng được, giác biết được, mà sao nói rằng thân tâm đắc đạo Bồ Ðề? 

Lúc đại Bồ Tát quán sát tường tận như thế, thấy rõ ràng thân tướng không thể chứng đắc đạo Bồ Ðề, cũng biết rằng tâm lại không thể chứng đạo Bồ Ðề. Vì sao? Các pháp không nương vào sắc mà chứng đắc sắc, nương tâm mà chứng đắc tâm. Chỉ nương vào lời nói mà biết tất cả pháp. Tuy vậy, chúng vốn là vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, không thể xem thấy, không thể chứng biết, không thể chứng đắc, không thể chẳng chứng đắc. Vì sao? Vì thân của chư Như Lai vốn vô lậu. Do thân chư Như Lai vô lậu nên tâm cũng vô lậu. Do tâm chư Như Lai vô lậu nên sắc tướng cũng vô lậu.

Lại nữa, sắc tướng của chư Như Lai vốn vô lậu, nên thọ cảm vô lậu, cho đến hành và thức cũng vô lậu, giới pháp của chư Như Lai cũng vô lậu, tất cả tam muội trí huệ cũng vô lậu, cho đến giải thoát tri kiến cũng vô lậu; như thế cho đến chư Như Lai, tất cả ngôn thuyết của chư Như Lai, những lời đã thuyết, nay thuyết và sẽ thuyết, cùng tất cả pháp đều vô lậu.

Này Hiền Hộ! Bậc trí hay thông đạt tất cả Phật pháp như thế, còn kẻ ngu thì nào biết được. Lúc họ quán sát như thế, không thể nắm bắt được tất cả pháp. Vì sao? Ai hay chứng ngộ mà không thể nắm bắt. Sao gọi là chứng ngộ và cũng không thể nắm bắt? Duyên theo sự chứng ngộ nào mà không thể nắm bắt? Họ hay quán sát như thế xong, thì nhập vào diệt tận định, phân biệt được các pháp, cũng chẳng phân biệt được các pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Như lúc lửa chưa cháy, có người nói như vầy: “Nay tôi sẽ dập tắt ngọn lửa này”. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao, kẻ đó nói như thế có phải là người thành thật chăng?
Bồ Tát Hiền Hộ thưa:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thành thật.
Phật bảo:

-Các pháp như thế xưa nay rốt ráo không thể nắm bắt được. Sao nay lại nói rằng: “Ta hay chứng biết tất cả pháp, Ta hay liễu đạt tất cả pháp, Ta hay giác ngộ tất cả pháp, Ta hay giải thoát tất cả chúng sanh”? Trong dòng sanh tử, những lời này không phải là lời chân chánh. Vì sao? Trong pháp giới vốn không có các pháp, cũng không có chúng sanh, thì sao lại bảo rằng có nhân duyên độ chúng sanh trong cõi này ư? Tuy nhiên, chỉ trong Thế Đế mới có nhân duyên độ.

Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao, người đó nói như vậy có thật chăng? 

Bồ Tát Hiền Hộ thưa:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thật.

Phật bảo Hiền Hộ:
-Do đó, trai lành gái thảo nào muốn thành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng, cho đến muốn thành tựu đạo Bồ Ðề Duyên Giác, đạo Bồ Ðề Thanh Văn, đều phải quán sát tất cả pháp như thế. Lúc quán chiếu sẽ nhập diệt tận định, không còn phân biệt hay chẳng không phân biệt. Vì sao? Này Hiền Hộ! Vì tất cả pháp xưa nay chẳng có sanh diệt, mà sau khi xuất định lại có phân biệt thì là chấp một bên, còn trong định không phân biệt là chấp một bên khác. Cả hai bên đó không phải là thiền định tịch tĩnh, cũng chẳng không phải là thiền định tịch tĩnh, không chỗ suy tư, không chỗ phân biệt, không chỗ chứng biết, không chỗ qua lại, không chỗ tụ tập, không chỗ suy nghĩ, không chỗ phát khởi.

Này Hiền Hộ! Ðó gọi là trung đạo mà tất cả sự việc, tính lường, nơi chốn đều y theo Thế Đế.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Trong Đệ Nhất Nghĩa Đế chân thật, không thể nắm bắt được chính giữa hoặc hai bên. Vì sao? Này Hiền Hộ! Tất cả pháp giống như hư không, xưa nay vốn tịch diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng có tích tụ, chẳng có trụ xứ, không thể y theo, không hình tướng, vô vi, không có tính đếm.

Này Hiền Hộ! Kia không thể tính đếm thì làm sao lại có? Không thể tính đếm nên không thể nhập vào con số. Không thể nhập vào con số cho đến không có trí tính đếm, danh từ lời nói.

Này Hiền Hộ! Lúc chư đại Bồ Tát quán sát như thế, biết chư Như Lai, không thể chấp trước. Vì sao? Do không thể chấp vào tất cả pháp, nên nương nơi không có xứ sở mà có thể chấp vào, cũng không có cội gốc nên có thể đoạn dứt. Do trừ diệt cội gốc nên không có chỗ nương vào.

Này Hiền Hộ! Chư đại Bồ Tát đó nên suy gẫm tam muội Chư Phật Hiện Tiền như thế. Nếu sau khi đã thấy chư Như Lai như thế xong, chớ nên giữ lấy đắm vào, chớ nên chấp trì. Vì sao? Này Hiền Hộ! Không thể chấp giữ tất cả pháp, vì chúng giống như hư không, bản tánh thường vắng lặng.

Này Hiền Hộ! Như chày kim cang được bỏ trong lửa, khéo tôi luyện rèn nén, nên trị được lửa mạnh khói độc. Như miếng sắt nóng vừa được lấy ra từ lò vẫn còn cháy đỏ, thì bậc trí không nên cầm nắm. Vì sao? Miếng sắt vẫn còn lửa vàng, nếu chạm vào thì sẽ bị phỏng. Cũng như thế, này Hiền Hộ! Bồ Tát quán chiếu chư Phật, không thể chấp giữ. Do đó, lúc Bồ Tát quán sát sắc tướng của chư Phật, chớ nên khởi tâm đắm trước. Quán sát thọ, cho đến hành thức cũng không nên khởi tâm đắm trước. Lại nữa, lúc Bồ Tát quán giới pháp cũng không nên chấp trước. Quán thiền định như thế, cho đến trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến cũng chớ nên chấp trước. Vì sao? Ai chấp giữ thì không thể rời pháp khổ sanh tử, vì pháp khổ sanh tử đều do chấp giữ mà có. Vì vậy, lúc Bồ Tát quán sát chư Phật như thế, chớ nên có ý tưởng chấp giữ.

Này Hiền Hộ! Tuy không chấp giữ, mà nên cần cầu công đức thù thắng vi diệu của chư Phật, đó gọi là Phật trí, Như Lai trí, trí huệ rộng lớn, trí huệ tự nhiên, trí huệ tự tại, trí huệ không thể nghĩ bàn, trí huệ khó xưng lường, trí huệ vô đẳng đẳng, trí huệ Nhất Thiết Trí. Nếu ai muốn nhập vào những loại trí huệ này, phải nên tinh tấn suy tư quán chiếu tam muội Thấy Phật Hiện Tiền.

Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, nên thuyết kệ rằng:

“Giống như tấm kính và son phấn
Phụ nữ trang sức xoa bóng mặt 
Kẻ ngu khởi tâm nhiễm vào đó
Nơi nơi chạy theo vì cầu dục
Trong không hắn khởi tưởng điên đảo
Chẳng biết pháp đó hư vọng sanh
Kẻ đó bị lửa tham dục đốt
Cô kia khởi dục lại tự phát.
Nếu có Bồ Tát khởi niệm này
Gọi là vô trí, chấp tâm mình.
Cam lồ Bồ Ðề trong tương lai
Ta cứu chúng sanh thoát khổ nhọc
Trong đệ nhất nghĩa không chúng sanh
Thế gian chỉ có sanh lão tử
Các pháp vô hình như trăng nước
Sao có Bồ Ðề mà cầu được?
Các hình sắc như ảnh trong gương
Như huyễn như bóng như hư không
Phàm phu chấp vào không thể cưỡng
Họ tuy trói, hư không chẳng thật.
Chư Bồ Tát các bậc hiền trí
Biết đời điên đảo nên thấy rõ
Liễu đạt không người, ai thọ khổ?
Họ sẽ thành đạo vô thượng giác
Không ý phân biệt Phật Bồ Ðề
Tâm xưa nay vốn tự sáng tịnh 
Chẳng thấy sanh tửô trược
Họ chứng chân thật, Tối Thắng Tôn
Hết thảy sắc pháp, các vô lậu
Không thể phân biệt vọng và Không
Diệt trừ các dục, tâm giải thoát
Bậc trí đó chứng tam muội này
Trước niệm chư Phật thân vô tướng
Sau nghe các pháp vốn thanh tịnh
Suy gẫm như thế không nghĩ khác
Chứng tam muội này thật không khó
Thường suy tư quán các tướng không
Tức hay diệt các đống bụi bặm
Chẳng phân biệt thành hay hoại
Tất cả ngoại đạo mất trong đây.
Với tất cả sắc, không phân biệt
Mắt tuy thấy mà tâm không lụy
Họ thấy chư Phật như vòm trời
Vượt hẳn pháp giới trong thế gian
Tâm kia thanh tịnh mắt cũng sáng
Tuy cần tinh tấn thường trong định
Họ đắc đa văn không thể nói
Chứng tam muội này, thật tư duy
Nếu vì chẳng chứng thấy tam muội
Hết thảy kẻ mù lẽ chứng biết
Chớ nương thấy, chẳng không thấy
Trong đó ngoại đạo đều mê muội.
Thường rời tưởng tướng mà suy tư
Thấy kia chư Phật tâm thanh tịnh
Thấy vậy rồi bèn quán hết thảy
Họ mau chóng thành tựu tam muội
Kia không đất, nước, gió, và lửa
Cũng chẳng Không giới, trụ trước mặt
Nếu muốn quán sát hết thảy Phật
Nên tưởng nơi ngồi diễn diệu âm
Như Ta hôm nay tuyên diệu pháp
Tâm ai mến pháp, thấy thân Ta
Họ nên không có suy tư khác
Chỉ nên tưởng Phật thuyết chánh pháp
Chuyên quán vậy, chớ tưởng nhớ khác
Vì cầu tam muộiđa văn
Một lòng quán lời Ta dạy định
Tổng trì tất cả lời Phật dạy
Không có Phật nào trong quá khứ
Và trong hiện tại cùng tương lai
Chỉ thiền thanh tịnh vi diệu này
Kia không thể nói chứng hay bàn
Nơi ba cõi, Ta vô thượng Tôn
Vì lợi đời nên đặc biệt ra
Vì niệm chứng chư Phật Bồ Ðề
Tuyên thuyết tam muội không gì sánh
Nếu muốn thân và tâm an lạc
Cầu Phật công đức không nghĩ bàn
Cho đến chứng Bồ Ðề vi diệu
Nên tu tam muội thù thắng này
Muốn tịnh rộng sâu biển đa văn
chúng sanh mà thường cầu cần
Họ nên mau rời các bụi dục
Phải tu tam muội thù thắng này
Nếu muốn một đời thấy nhiều Phật
Thấy rồi cung kính lại thỉnh hỏi
Họ nên chóng xa chớ chấp trước
Phải quán sát tam muội vi diệu
Nơi đây không tham cũng không sân
Cũng không ngu si hay ganh ghét
Lại chẳng vô minh cùng lưới nghi
Phải trụ sâu định tịch tĩnh này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21768)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23604)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18989)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24765)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30976)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23991)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26515)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21320)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23230)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38136)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19048)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23884)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22812)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22916)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29580)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20644)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18862)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19683)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20156)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19956)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18124)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22943)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16919)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39251)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26078)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22903)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30966)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21010)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26855)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23325)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19819)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24684)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20226)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15839)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23901)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant