Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Phẩm Nhiêu Ích

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8295)
9. Phẩm Nhiêu Ích

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Nhiêu Ích, thứ 9

Lúc ấy, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ rằng này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia vô lượng a tăng kỳ kiếp, có một đức Phật hiệu là Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện nơi thế gian. Bấy giờ, có một công tử, tên là Tu Đạt Đa, cùng hai mươi hai ngàn người đi đến chỗ của đức Phật đó. Đến nơi, Tu Đạt Đa cung kính đảnh lễ chân Phật, lui về ngồi một bên, rồi cung thỉnh Phật Vô Úy Vương tuyên nói rộng tam muội thâm sâu này.

Này Hiền Hộ! Đức Phật Vô Úy Vương biết Tu Đạt Đatín tâm thâm sâu, ưa muốn nghe tam muội này, nên tùy theo thời mà giảng giải.

Này Hiền Hộ! Tu Đạt Đa sau khi nghe tam muội ở đó, liền đọc tụng thọ trì, suy tư nghĩa lý, y theo lời Phật dạyhành trì. Hành trì một thời gian sau, Tu Đạt Đa lại xả tục xuất gia, cắt bỏ râu tóc, đắp y ca sa trong pháp của Phật Vô Úy Vương, rồi suy tư tam muội này suốt tám mươi ngàn năm. Lại nữa, Tu Đạt Đa hay thọ trì tất cả giáo pháp ở nơi đức Phật đó. Về sau, ở nơi đức Như Lai đó, Tu Đạt Đa nghe dạy những pháp đó rồi đều hay thọ trì, và vun trồng biết bao căn lành, khéo rộng thành tựu không thể nghĩ bàn. Sau khi xả thân mạng liền sanh lên cõi trời thứ ba mươi ba, được thọ quả báo lành. Trong kiếp đó lại gặp đức Phật thứ hai, thuộc dòng Sát Lợi, hiệu là Điện Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Tu Đạt Đa cũng lại xuất gia trong giáo pháp của Phật Điện Đức, suốt tám mươi bốn ngàn năm, rồi vẫn suy tư tam muội đó. Sau này, lại gặp đức Phật thứ ba, vốn xuất thân từ dòng Bà La Môn, hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ở nơi đức Phật này, Tu Đạt Đa cũng xuất gia tu hành suốt tám mươi bốn ngàn năm, thường suy tư tam muội đó.

Này Hiền Hộ! Về sau, qua hơn trăm kiếp, Tu Đạt Đa thành tựu quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng Tu Đạt Đa xưa kia đâu phải ai khác lạ; Ngài chính là đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác trong đời quá khứ

Hiền Hộ, ông nên biết rằng Tu Đạt Đa do mến thích pháp đó, lại có tâm cầu pháp đó, nên chóng thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Ông nên quán chiếu tam muội vương đó, vì chư Bồ Tátchúng sanh mà hoằng dương rộng lớn và tạo sự nghiệp lợi lạc, thì sẽ đắc được tất cả trí địa của chư Phật, lại hay nhiếp thọ tất cả biển đa văn của chư Phật.

Này Hiền Hộ! Vì vậy các ông nên cần cầu tam muội đó, thường thích lắng nghe, đọc tụng, thọ trì, suy tư, tu hành. Sau khi lắng nghe thọ trì, phải nên vì người khác mà đọc tụng, thọ trì, giải thích nghĩa lý, để khiến họ cần cầu rồi được nghe qua, chánh niệm suy tư, y theo lời dạy mà tu hành. Vì sao? Này Hiền Hộ! Nếu hay cần cầu đọc tụng thọ trì, chánh niệm tu hành, giảng nói rộng, lưu bố tam muội này, thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc trí huệ của chư Phật, trí huệ đại tự tại, trí huệ không thể nghĩ bàn, trí huệ không thể xưng tán, trí huệ vô đẳng đẳng, trí huệ nhất thiết trí, cho đến đắc được trí huệ bất cộng.

Này Hiền Hộ! Nếu có người hay khéo tuyên thuyết thì phải nên nói lời chân chánh rằng tam muội này tức là mắt của tất cả chư Bồ Tát, cha của chư Bồ Tát, mẹ của chư Bồ Tát, hay ban trí huệ của chư Phật cho tất cả chư Bồ Tát.
Này Hiền Hộ! Tuyên thuyết như thế tức là lời nói lành, lời nói đúng thời.

Này Hiền Hộ! Nếu người trai lành gái thảo nào hay khéo nói lời lành thì phải nói chân chánh rằng tam muội này tức là Phật tánh, tức là Pháp tánh, tức là Tăng tánh, tức là đất Phật, tức là biển đa văn, tức là Đầu Đà vô tận tạng, tức là công đức Đầu Đà vô tận tạng, tức là công đức vô tận tạng của chư Phật, tức là vô tận tạng hay sanh hạnh nhẫn nhục thâm sâu, hay sanh đại từ, hay sanh đại bi, hay sanh Bồ Đề.

Này Hiền Hộ! Vì vậy, phải hay khéo nói, nói đúng thời về tam muội này.

Này Hiền Hộ! Lúc người nào khéo nói về tam muội này, thì phải nói thật rằng đó là tam muội vương, hay phá tất cả sự tối tăm, hay tạo tất cả pháp lớn sáng lạng.

Này Hiền Hộ! Vì vậy phải nên khéo nói tam muội này.

Này Hiền Hộ! Ông lại hãy xem xét vị Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, vì các chúng sanh mà làm lợi ích lớn, cho đến vì tất cả hàng Bồ Tát mà trụ ở cõi này, lại thấy tất cả chư Phật ở mười phương, đi đến các cõi chư Phật, cung kính đảnh lễ, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chư tăng, mà cũng chẳng tham trước.

Này Hiền Hộ! Do nghĩa đó mà chư Bồ Tát nếu muốn thành tựu tam muội vương, thì phải chuyên tâm tinh cần quán sát Tứ Niệm Xứ đó.

Này Hiền Hộ! Sao gọi là Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? 

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát thường nên chuyên tâm quán sát thân hạnh để rốt ráo chẳng thấy tất cả than; thường nên chuyên tâm quán sát thọ hạnh mà chẳng thấy tất cả thọ; thường nên nhất tâm quán sát tâm hạnh mà chẳng thấy tất cả tâm; thường nên nhất tâm quán sát pháp hạnh mà chẳng thấy tất cả pháp.
Này Hiền Hộ! Ai có thể tin những việc như thế? Chỉ có chư A La Hán lậu tận và chư Bồ Tát bất thối chuyển mới tin được. 

Này Hiền Hộ! Đối với Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, các phàm phu ngu si phải nên suy tư về chư Phật Thế Tôn mà chẳng sanh tâm tham trước, và cũng suy tư chư Phật Thế Tôn thuyết pháp như thế mà chẳng sanh tâm tham trước; lại cũng suy tư về pháp mình đã nghe mà không tham trước tất cả pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Các pháp đều là Không, vốn chẳng có sanh.

Này Hiền Hộ! Không thể niệm nhớ các pháp, vì không có chỗ niệm nhớ. 

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn xa rời, vì dứt tuyệt tâm tưởng.

Này Hiền Hộ! Không thể chấp trì các pháp, vì là chân như không thể đắc được.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn không nhiễm ô, vì như hư không.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn thanh tịnh, vì xa rời chúng sanh.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn không ô trược, vì nhân duyên diệt.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn vô vi, vì không thể nắm bắt Phú Ca La.

Này Hiền Hộ! Các pháp tức là tướng Niết Bàn, vì bản tánh vốn thanh tịnh.

Này Hiền Hộ! Các pháp vô sở hữu, vì không thể nắm bắt tất cả vật.

Này Hiền Hộ! Do đó, các Bồ Tát nào muốn suy tư tam muội này, không thể dùng tướng khác mà hay khéo nhập vào tướng vô sở đắc, được thấy chư Phật, chánh niệm chư Phật, hòa hợp tương ưng, cũng đắc suy tư trợ Bồ Đề phần, niệm nghe chánh pháp, suy nghĩ phân biệt tuyển trạch Bồ Đề phần, mà chẳng thấy tự thân, cũng chẳng chứng đắc các pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Vì trong đó không thể lấy hình tướng mà thấy được Phật, cũng chẳng lấy âm thanh mà được nghe pháp; không thể lấy tâm hy vọngthành tựu Bố Thí Ba La Mật; không thể lấy sự mến thích các cõi mà đầy đủ Giới Ba La Mật; không thể lấy sự bỏn xẻn pháp bí mậtchứng đắc Niết Bàn; không thể lấy sự tham trước vào tâm tưởng Phú Ca Lađạt được đa văn; không thể lấy sự phan duyên vào các hạnh mà hay xa rời các sự việc; không thể lấy sự mến luyến chỗ nơi mà chứng quả; không thể lấy sự tùy thuận theo tham ái mà rời các lỗi lầm; không thể lấy sự tranh chấpthành tựu các hạnh nhẫn nhục; không thể thường hành nghiệp xấu mà đắc được quả lành; không thể y theo người Thanh Vănchứng đắc Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, cũng không thể chứng đắc các hạnh nhẫn nhục của chư Bồ Tát; cũng không thể lấy sự ganh ghét chấp trước mà đắc Không tam muội; cũng không thể lấy sự hành ái dục mà nhập Xa Ma Tha, cũng không thể lấy sự giải đãi ỷ lại mà chứng thánh đạo; cho đến cũng không thể lấy hạnh chẳng xả các niệm khác về các vật mà thành tựu suy tư.

Này Hiền Hộ! Thế nên, ngày nay Ta phó chúc tam muội này cho các hàng Đại Thiên Vương, thọ trì thủ hộ, và cũng phó chúc cho ông. Phải nên tuyên thuyết rộng trong tương lai, chớ để tuyệt mất.

Lúc đức Thế Tôn thuyết pháp như thế, có tám na do tha chư Thiên Tử trong cõi Dục giớiSắc giới đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có vô số trăm ngàn người cũng phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trong tương lai qua hằng sa kiếp, tất cả họ sẽ chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đồng một danh hiệu là Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Trụ thế, thọ mạng, giáo hóa, tất cả đều giống như nhau. 

Này Hiền Hộ! Chỉ dùng tâm sơ phát Bồ Đề mà được vô lượng công đức, thành tựu đầy đủ đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, huống là đã từng cúng dường Ta, lúc Ta còn hành hạnh Bồ Tát xưa kia. Họ chẳng mau thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sao! 

Này Hiền Hộ! Lại có vô số chúng sanh nghe pháp này, đắc được mắt trí thanh tịnh. Lại có tám trăm vị tỳ kheo ngay trong các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng;

“Ai hay thọ trì tam muội này
Họ sẽ tích tụ vô số phước
Giới hạnh của họ không nhơ
Bổn tâm thanh tịnh như gương sáng.
Ai hay thọ trì tam muội này
Đa văn rộng sâu không thể lường
Trí huệ tự nhiên không khuyết giảm
Công đức sung túc như trăng sáng
Ai hay thọ trì tam muội này
Được thấy chư Phật không nghĩ bàn
Trí huệ quán chiếu pháp hy hữu
Bậc không thể bàn đều thủ hộ.
Ai thường thọ trì tam muội này
Được gặp vô số chư Thế Tôn
Phật kia thuyết pháp khó xưng lường
Đều nên hầu hạ tu cúng dường.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ làm ngọn đèn cho thế gian
Đại bi như Phật, dứt các khổ
Tất cúng dường tất cả Thế Tôn.
Ai hay thọ trì tam muội này
Tương lai vô số chư Thánh Tôn
Nếu có Bồ Tát muốn thấy mặt
Thanh tịnh tín tâm tu cúng dường.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ được lợi thù thắng vô cùng
Khéo hay sanh xuống cõi người
Thường được xuất gia khéo cầu thực.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ thọ nhiều phước không nghĩ bàn.
Lại hay trụ trì trong tương lai
Được công đức kia, rốt ráo lợi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14800)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11866)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12803)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10381)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12097)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15323)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11126)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10575)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12500)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16468)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14352)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11833)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14846)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12064)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16899)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11615)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12767)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11374)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12087)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52237)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15505)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13994)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11473)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13218)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12814)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13254)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17941)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12478)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12703)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54254)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14454)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9963)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13842)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58051)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14542)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20179)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13831)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15442)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17529)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13342)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11953)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13517)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14695)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12517)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12178)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12089)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13318)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12568)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13683)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13358)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25642)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12207)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14589)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11888)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42113)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28382)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38844)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14744)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12724)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16260)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant