Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Phẩm Nhiêu Ích

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8293)
9. Phẩm Nhiêu Ích

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Nhiêu Ích, thứ 9

Lúc ấy, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ rằng này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia vô lượng a tăng kỳ kiếp, có một đức Phật hiệu là Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện nơi thế gian. Bấy giờ, có một công tử, tên là Tu Đạt Đa, cùng hai mươi hai ngàn người đi đến chỗ của đức Phật đó. Đến nơi, Tu Đạt Đa cung kính đảnh lễ chân Phật, lui về ngồi một bên, rồi cung thỉnh Phật Vô Úy Vương tuyên nói rộng tam muội thâm sâu này.

Này Hiền Hộ! Đức Phật Vô Úy Vương biết Tu Đạt Đatín tâm thâm sâu, ưa muốn nghe tam muội này, nên tùy theo thời mà giảng giải.

Này Hiền Hộ! Tu Đạt Đa sau khi nghe tam muội ở đó, liền đọc tụng thọ trì, suy tư nghĩa lý, y theo lời Phật dạyhành trì. Hành trì một thời gian sau, Tu Đạt Đa lại xả tục xuất gia, cắt bỏ râu tóc, đắp y ca sa trong pháp của Phật Vô Úy Vương, rồi suy tư tam muội này suốt tám mươi ngàn năm. Lại nữa, Tu Đạt Đa hay thọ trì tất cả giáo pháp ở nơi đức Phật đó. Về sau, ở nơi đức Như Lai đó, Tu Đạt Đa nghe dạy những pháp đó rồi đều hay thọ trì, và vun trồng biết bao căn lành, khéo rộng thành tựu không thể nghĩ bàn. Sau khi xả thân mạng liền sanh lên cõi trời thứ ba mươi ba, được thọ quả báo lành. Trong kiếp đó lại gặp đức Phật thứ hai, thuộc dòng Sát Lợi, hiệu là Điện Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Tu Đạt Đa cũng lại xuất gia trong giáo pháp của Phật Điện Đức, suốt tám mươi bốn ngàn năm, rồi vẫn suy tư tam muội đó. Sau này, lại gặp đức Phật thứ ba, vốn xuất thân từ dòng Bà La Môn, hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ở nơi đức Phật này, Tu Đạt Đa cũng xuất gia tu hành suốt tám mươi bốn ngàn năm, thường suy tư tam muội đó.

Này Hiền Hộ! Về sau, qua hơn trăm kiếp, Tu Đạt Đa thành tựu quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng Tu Đạt Đa xưa kia đâu phải ai khác lạ; Ngài chính là đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác trong đời quá khứ

Hiền Hộ, ông nên biết rằng Tu Đạt Đa do mến thích pháp đó, lại có tâm cầu pháp đó, nên chóng thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Ông nên quán chiếu tam muội vương đó, vì chư Bồ Tátchúng sanh mà hoằng dương rộng lớn và tạo sự nghiệp lợi lạc, thì sẽ đắc được tất cả trí địa của chư Phật, lại hay nhiếp thọ tất cả biển đa văn của chư Phật.

Này Hiền Hộ! Vì vậy các ông nên cần cầu tam muội đó, thường thích lắng nghe, đọc tụng, thọ trì, suy tư, tu hành. Sau khi lắng nghe thọ trì, phải nên vì người khác mà đọc tụng, thọ trì, giải thích nghĩa lý, để khiến họ cần cầu rồi được nghe qua, chánh niệm suy tư, y theo lời dạy mà tu hành. Vì sao? Này Hiền Hộ! Nếu hay cần cầu đọc tụng thọ trì, chánh niệm tu hành, giảng nói rộng, lưu bố tam muội này, thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc trí huệ của chư Phật, trí huệ đại tự tại, trí huệ không thể nghĩ bàn, trí huệ không thể xưng tán, trí huệ vô đẳng đẳng, trí huệ nhất thiết trí, cho đến đắc được trí huệ bất cộng.

Này Hiền Hộ! Nếu có người hay khéo tuyên thuyết thì phải nên nói lời chân chánh rằng tam muội này tức là mắt của tất cả chư Bồ Tát, cha của chư Bồ Tát, mẹ của chư Bồ Tát, hay ban trí huệ của chư Phật cho tất cả chư Bồ Tát.
Này Hiền Hộ! Tuyên thuyết như thế tức là lời nói lành, lời nói đúng thời.

Này Hiền Hộ! Nếu người trai lành gái thảo nào hay khéo nói lời lành thì phải nói chân chánh rằng tam muội này tức là Phật tánh, tức là Pháp tánh, tức là Tăng tánh, tức là đất Phật, tức là biển đa văn, tức là Đầu Đà vô tận tạng, tức là công đức Đầu Đà vô tận tạng, tức là công đức vô tận tạng của chư Phật, tức là vô tận tạng hay sanh hạnh nhẫn nhục thâm sâu, hay sanh đại từ, hay sanh đại bi, hay sanh Bồ Đề.

Này Hiền Hộ! Vì vậy, phải hay khéo nói, nói đúng thời về tam muội này.

Này Hiền Hộ! Lúc người nào khéo nói về tam muội này, thì phải nói thật rằng đó là tam muội vương, hay phá tất cả sự tối tăm, hay tạo tất cả pháp lớn sáng lạng.

Này Hiền Hộ! Vì vậy phải nên khéo nói tam muội này.

Này Hiền Hộ! Ông lại hãy xem xét vị Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, vì các chúng sanh mà làm lợi ích lớn, cho đến vì tất cả hàng Bồ Tát mà trụ ở cõi này, lại thấy tất cả chư Phật ở mười phương, đi đến các cõi chư Phật, cung kính đảnh lễ, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chư tăng, mà cũng chẳng tham trước.

Này Hiền Hộ! Do nghĩa đó mà chư Bồ Tát nếu muốn thành tựu tam muội vương, thì phải chuyên tâm tinh cần quán sát Tứ Niệm Xứ đó.

Này Hiền Hộ! Sao gọi là Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? 

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát thường nên chuyên tâm quán sát thân hạnh để rốt ráo chẳng thấy tất cả than; thường nên chuyên tâm quán sát thọ hạnh mà chẳng thấy tất cả thọ; thường nên nhất tâm quán sát tâm hạnh mà chẳng thấy tất cả tâm; thường nên nhất tâm quán sát pháp hạnh mà chẳng thấy tất cả pháp.
Này Hiền Hộ! Ai có thể tin những việc như thế? Chỉ có chư A La Hán lậu tận và chư Bồ Tát bất thối chuyển mới tin được. 

Này Hiền Hộ! Đối với Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, các phàm phu ngu si phải nên suy tư về chư Phật Thế Tôn mà chẳng sanh tâm tham trước, và cũng suy tư chư Phật Thế Tôn thuyết pháp như thế mà chẳng sanh tâm tham trước; lại cũng suy tư về pháp mình đã nghe mà không tham trước tất cả pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Các pháp đều là Không, vốn chẳng có sanh.

Này Hiền Hộ! Không thể niệm nhớ các pháp, vì không có chỗ niệm nhớ. 

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn xa rời, vì dứt tuyệt tâm tưởng.

Này Hiền Hộ! Không thể chấp trì các pháp, vì là chân như không thể đắc được.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn không nhiễm ô, vì như hư không.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn thanh tịnh, vì xa rời chúng sanh.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn không ô trược, vì nhân duyên diệt.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn vô vi, vì không thể nắm bắt Phú Ca La.

Này Hiền Hộ! Các pháp tức là tướng Niết Bàn, vì bản tánh vốn thanh tịnh.

Này Hiền Hộ! Các pháp vô sở hữu, vì không thể nắm bắt tất cả vật.

Này Hiền Hộ! Do đó, các Bồ Tát nào muốn suy tư tam muội này, không thể dùng tướng khác mà hay khéo nhập vào tướng vô sở đắc, được thấy chư Phật, chánh niệm chư Phật, hòa hợp tương ưng, cũng đắc suy tư trợ Bồ Đề phần, niệm nghe chánh pháp, suy nghĩ phân biệt tuyển trạch Bồ Đề phần, mà chẳng thấy tự thân, cũng chẳng chứng đắc các pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Vì trong đó không thể lấy hình tướng mà thấy được Phật, cũng chẳng lấy âm thanh mà được nghe pháp; không thể lấy tâm hy vọngthành tựu Bố Thí Ba La Mật; không thể lấy sự mến thích các cõi mà đầy đủ Giới Ba La Mật; không thể lấy sự bỏn xẻn pháp bí mậtchứng đắc Niết Bàn; không thể lấy sự tham trước vào tâm tưởng Phú Ca Lađạt được đa văn; không thể lấy sự phan duyên vào các hạnh mà hay xa rời các sự việc; không thể lấy sự mến luyến chỗ nơi mà chứng quả; không thể lấy sự tùy thuận theo tham ái mà rời các lỗi lầm; không thể lấy sự tranh chấpthành tựu các hạnh nhẫn nhục; không thể thường hành nghiệp xấu mà đắc được quả lành; không thể y theo người Thanh Vănchứng đắc Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, cũng không thể chứng đắc các hạnh nhẫn nhục của chư Bồ Tát; cũng không thể lấy sự ganh ghét chấp trước mà đắc Không tam muội; cũng không thể lấy sự hành ái dục mà nhập Xa Ma Tha, cũng không thể lấy sự giải đãi ỷ lại mà chứng thánh đạo; cho đến cũng không thể lấy hạnh chẳng xả các niệm khác về các vật mà thành tựu suy tư.

Này Hiền Hộ! Thế nên, ngày nay Ta phó chúc tam muội này cho các hàng Đại Thiên Vương, thọ trì thủ hộ, và cũng phó chúc cho ông. Phải nên tuyên thuyết rộng trong tương lai, chớ để tuyệt mất.

Lúc đức Thế Tôn thuyết pháp như thế, có tám na do tha chư Thiên Tử trong cõi Dục giớiSắc giới đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có vô số trăm ngàn người cũng phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trong tương lai qua hằng sa kiếp, tất cả họ sẽ chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đồng một danh hiệu là Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Trụ thế, thọ mạng, giáo hóa, tất cả đều giống như nhau. 

Này Hiền Hộ! Chỉ dùng tâm sơ phát Bồ Đề mà được vô lượng công đức, thành tựu đầy đủ đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, huống là đã từng cúng dường Ta, lúc Ta còn hành hạnh Bồ Tát xưa kia. Họ chẳng mau thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sao! 

Này Hiền Hộ! Lại có vô số chúng sanh nghe pháp này, đắc được mắt trí thanh tịnh. Lại có tám trăm vị tỳ kheo ngay trong các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng;

“Ai hay thọ trì tam muội này
Họ sẽ tích tụ vô số phước
Giới hạnh của họ không nhơ
Bổn tâm thanh tịnh như gương sáng.
Ai hay thọ trì tam muội này
Đa văn rộng sâu không thể lường
Trí huệ tự nhiên không khuyết giảm
Công đức sung túc như trăng sáng
Ai hay thọ trì tam muội này
Được thấy chư Phật không nghĩ bàn
Trí huệ quán chiếu pháp hy hữu
Bậc không thể bàn đều thủ hộ.
Ai thường thọ trì tam muội này
Được gặp vô số chư Thế Tôn
Phật kia thuyết pháp khó xưng lường
Đều nên hầu hạ tu cúng dường.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ làm ngọn đèn cho thế gian
Đại bi như Phật, dứt các khổ
Tất cúng dường tất cả Thế Tôn.
Ai hay thọ trì tam muội này
Tương lai vô số chư Thánh Tôn
Nếu có Bồ Tát muốn thấy mặt
Thanh tịnh tín tâm tu cúng dường.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ được lợi thù thắng vô cùng
Khéo hay sanh xuống cõi người
Thường được xuất gia khéo cầu thực.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ thọ nhiều phước không nghĩ bàn.
Lại hay trụ trì trong tương lai
Được công đức kia, rốt ráo lợi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12513)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10413)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12366)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28839)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12070)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11471)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12392)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17472)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53109)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35514)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21428)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10703)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19276)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12444)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26070)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13336)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14409)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16105)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16870)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17609)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13153)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11636)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11639)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20500)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19019)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19622)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18694)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12216)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12341)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13882)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15057)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15056)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14010)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15542)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11416)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14999)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20248)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11745)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15082)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13015)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22914)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11694)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13186)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16911)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18367)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11957)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15871)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18936)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18447)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant