Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Ông Tu-bạt-đà-la quy Phật

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 14854)
15. Ông Tu-bạt-đà-la quy Phật

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

XV. ÔNG TU-BẠT-ĐÀ-LA QUY PHẬT

Khi ấy, thành Cưu-thi-na có một người ngoại-đạo, một trăm hai mươi tuổi, tên là Tu-bạt-đà-la (Subhadra). Ông này thông-minh đa trí, tụng suốt bốn kinh Phệ-đà [19], hết thảy sách, luận đều thông-đạt cả, nên được hết thảy mọi người tôn-kính.

Ông nghe biết được Như-Lai ở khoảng song-thụ trong rừng Sa-la sắp nhập Niết-Bàn. Tâm ông tự nghĩ: “Các sách, luận của đạo ta nói đức Phật ra đời rất là khó gặp, cũng như hoa Ưu-đàm bao thời mới hiện một lần. Nay Ngài ở trong rừng Sa-la, ta còn có chỗ ngờ, ta thử đến thỉnh-vấn, nếu Sa-môn Cồ-Đàm [20] giải-quyết được sự ngờ-vực của ta, thời thực là người được Nhất-thiết-chủng-trí.

Ông nghĩ thế rồi, liền đi đến nơi Phật.

Còn ở ngoài rừng ông gặp ông A-Nan, ông nói với ông A-Nan rằng: “Trong sách, luận đạo tôi nói đức Phật ra đời rất khó gặp được, ức, nghìn, vạn-kiếp, từng thời, từng thời mới hiện ra, như hoa Ưu-đàm không thể thường thấy được. Đức Phật giáo-hóa tại thế-gian, mà tôi vẫn không được trông thấy. Nay tôi nghe biết Ngài ở trong rừng Sa-la này, sắp nhập Niết-Bàn; tôi có chỗ ngờ, muốn đến thỉnh-vấn Ngài, vậy mong ông vì tôi bạch lên đức Thế-Tôn là nay tôi muốn được yết-kiến Ngài một chút!”

Ông A-Nan nghe lời nói ấy của ông Tu-bạt-đà-la tâm ông tự nghĩ: “Nay đức Thế-Tôn bốn đại [21] không được an-hòa, Ngài tiếp-đối lâu, là tự mình tăng thêm việc ác, nghĩa là, nếu ta lại cho người ngoại-đạo vào yết-kiến đức Thế-Tôn, tất nhiên phải có ngôn-luận, dung-thể sẽ tổn-kịch thêm!” Ông A-Nan liền đáp: “Nay đức Thế-Tôn bốn đại không được an-hòa, nằm nghỉ trong rừng, thân đau cực-khổ, vậy nay xin ông không nên vào yết-kiến đức Như-Lai nữa! Xin ông đừng tới khi đức Thế-Tôn sắp nhập Niết-Bàn, có sự chướng-ngại!”

Ông Tu-bạt-đà-la thỉnh-cầu ông A-Nan đến ba lần như thế, ông A-Nan cũng lại đáp lại ba lần như thế. Bấy giờ đức Thế-Tôn dùng Thiên-nhĩ [22] thanh-tịnh, nghe thấy tiếng ông Tu-bạt-đà-la thỉnh-cầu ông A-Nan; Ngài lại quán-sát căn-khí của ông ấy, Ngài biết là đã đến thời có thể độ được ông ấy, Ngài liền dùng Phạm-âm bảo ông A-Nan: “Ông đừng làm trở-ngại người đệ-tử tối-hậu của Tôi, ông nên thuận cho ông Tu-bạt-đà-la lại trước Tôi, Tôi muốn được trông thấy ông ấy. Ông ấy là người chất-trực, thông-tuệ, giác-ngộ dễ-dàng. Ông ấy sở-dĩ đến nơi Tôi là muốn được giải-quyết điều ngờ-vực, không phải là cố-ý lại để tranh-luận hơn, kém đâu!”

Lúc đó, ông A-Nan vâng lời Phật dạy mới bảo ông Tu-bạt-đà-la rằng: “Nay đức Thế-Tôn đã dạy tôi, thuận để ông vào gặp Ngài”.

Ông Tu-bạt-đà-la nghe biết đức Phật thuận cho ông vào trước Ngài, vui mừng hớn-hở, không tự hãm được, tâm ông nghĩ rằng: Sa-môn Cồ-Đàm quyết-định là người chứng được Nhất-thiết-chủng-trí!”

Nghĩ rồi, ông liền đi vào nơi Phật ở. Thăm hỏi lẫn nhau rồi, ông ngồi về một bên và bạch phật rằng: “Thưa Cồ-Đàm Sa-môn! Nay tôi có điều muốn hỏi, xin Ngài hoan-hỷ thuận cho!”

Đức Phật đáp: “Quý hóa thay, quý hóa thay! Ông Tu-bạt-đà-la, tha-hồ ông muốn hỏi gì, cứ hỏi!”

Ông Tu-bạt-đà-la liền hỏi Phật: “Nay ở thế-gian này, các vị Sa-môn, Bà-la-môn, lục-sư ngoại-đạo như: Phú-lan-na-ca-diếp (Purana Kàsyapa), Mạt-già-lỵ-câu-sa-lê-tử (Maskàri Gosaliputra), A-kỳ-đà-sí-xá-khâm-bà-la (Ajtakesakambala), Ca-la-cưu-đà-ca-chiên-diên (Kakuda Kàtyàyand), Ni-kiền-đà-nhã-đề-tử (Nirgranta Jnatiputra)…, đều tự nói là được Nhất-thiết-trí, cho những học-giả khác là tà-kiến; họ cho hành-động của đạo họ, là đạo giải-thoát, hành-động của đạo khác chỉ là nhân sinh-tử. Phải, trái lẫn-lộn, sao biết được đằng nào là hư, thực; thầy nào được gọi là Sa-môn, thầy nào quyết-định là nhân giải-thoát?”

Đức Như-Lai đáp: “Quý hóa thay, quý hóa thay, ông Tu-bạt-đà-la! Nay ông hỏi Tôi được nghĩa ấy, ông hãy nghe cho kỹ, nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói về vấn-đề ấy.”

Ông Tu-bạt-đà-la! Trong các pháp, nếu pháp nào không có pháp Bát-thánh-đạo, sẽ biết là nơi ấy không có tên một bậc Sa-môn, cho đến tên hai và ba, bốn bậc Sa-môn cũng lại không có [23]. Đã không có Sa-môn, cũng không có giải-thoát; giải-thoát đã không có, thời không phải là được Nhất-thiết-chủng-trí!

Ông Tu-bạt-đà-la! Nếu trong các pháp có Bát-thánh-đạo, nên biết rằng nơi ấy quyết-định có tên của bốn bậc Sa-môn. Có tên bậc Sa-môn thời có giải-thoát; đã có giải-thoát, là được Nhất-thiết-chủng-trí!

Ông Tu-bạt-đà-la! So-sánh các pháp, duy trong pháp Tôi có Bát-thánh-đạo, có tên bốn bậc Sa-môn, là đạo giải-thoát, là Nhất-thiết-chủng-trí. Các ngoại-đạo kia như Phú-lan-na-ca-diếp vân vân, trong chỗ thuyết-pháp của họ, không có Bát-thánh-đạo, không có tên bậc Sa-môn, không phải là giải-thoát và Nhất-thiết-chủng-trí. Nếu họ nói là có, thời biết lời nói ấy quyết là lời nói dối-trá!

Ông Tu-bạt-đà-la! Hết thảy chúng-sinh nghe pháp Tôi nói, tin-thụ, suy-nghĩ, thời biết người ấy tất không nghe không, mà quyết được giải-thoát!

Ông Tu-bạt-đà-la! Khi Tôi còn ở vương-cung chưa đi xuất-gia, hết thảy thế-gian đều bị hàng lục-sư mê-hoặc, chưa thấy có cái thực Sa-môn!

Ông Tu-bạt-đà-la! Năm hai mươi chín tuổi Tôi xuất-gia học đạo, năm ba mươi sáu tuổi [24] Tôi ngồi dưới gốc cây Bồ-Đề, suy-nghĩ về nguyên-để cứu-cánh của Bát-thánh-đạo, thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác, chứng được Nhất-thiết-chủng-trí. Chứng-ngộ rồi, Tôi đi đến vườn Lộc-giã, là nơi trụ-xứ của các tiên-nhân thuở xưa, thuộc nước Ba-la-nại, Tôi vì bọn ông Kiều-Trần-Như năm người [25], quay pháp-luân Tứ-đế, họ nghe được dấu-tích của đạo, khi ấy mới có tên Sa-môn ra đời, đem phúc-lợi cho chúng-sinh!

Ông Tu-bạt-đà-la! Ông nên biết rằng pháp Tôi được giải-thoát, Như-Lai thực là Nhất-thiết-chủng-trí!

Ông Tu-bạt-đà-la nghe đức Như-Lai nói về Bát-thánh-đạo rồi tâm sinh hoan-hỷ, khắp mình sởn lông, khát-ngưỡng muốn được nghe về nghĩa của Bát-thánh-đạo, ông bạch Phật rằng: “Kính xin Thế-Tôn, vì con mà phân-biệt và nói rộng nghĩa của Bát-thánh-đạo cho!”

Đức Thế-Tôn lại vì ông ấy phân-biệt và nói rộng nghĩa của Bát-thánh-đạo.

Ông Tu-bạt-đà-la nghe đức Phật nói nghĩa của Bát-thánh-đạo rồi, tâm-ý ông mở tỏ, bỗng dưng đại-ngộ và ở trong mọi pháp ông xa lìa được trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh, ông liền bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Nay con muốn xuất-gia trong Phật-pháp, mong đức Thế-Tôn chấp-thuận!

Đức thế-Tôn liền gọi: “Thiện-Lai Tỳ-Khưu!” Râu tóc ông tự sạch, ca-sa mặc vào mình, tức thành Sa-môn. Đức Thế-Tôn lại nói rộng về Tứ-đế cho ông nghe, ông liền được lậu-tận, thành A-La-Hán.

Đức Phật bảo ông A-Nan: “Nay ông nên biết rằng Tôi ở nơi đạo-tràng, thành Vô-thượng chính-đẳng chính-giác, lần đầu tiên thuyết-pháp độ cho bọn ông Kiều-Trần-Như năm người, ngày nay trong rừng Sa-la, sắp nhập Niết-Bàn, lần thuyết-pháp cuối cùng này, Tôi độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Từ đây, chư Thiên, nhân-dân không ai được nghe Tôi thuyết-pháp mà đắc-độ nữa, nhưng, nếu người có thiện-căn cũng sẽ được giải-thoát, sau đây đều do đệ-tử của Tôi, dạy bảo lẫn nhau!”

Ông A-Nan! Ông Tu-bạt-đà-la, tuy là ngoại-đạo, mà thiện-căn của ông ấy, hợp thời thành-thục, duy có Như-Lai phân-biệt biết được. Sau khi Tôi nhập Niết-Bàn nếu có người ngoại-đạo, muốn xin xuất-gia trong pháp Tôi, các ông không nên thuận ngay cho họ; trước tiên yêu cầu họ phải tụng-tập kinh sách trong bốn tháng, xem ý-tính của họ là hư hay thực. Nếu thấy hạnh họ chất-trực, nhu-hòa và đối với trong pháp Tôi, thực có ý muốn sâu-xa, sau mới ưng-thuận cho họ xuất-gia. Ông A-Nan! Sở dĩ thế, là vì các ông trí-tuệ ít, không thể phân-biệt được căn-khí chúng-sinh ngay, nên buộc các ông trước phải xem-xét họ đã!

Khi ấy, ông Tu-bạt-đà-la bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Trước đây con muốn xin xuất-gia, đức Thế-Tôn nếu buộc con trước phải ở trong Phật-pháp bốn mươi năm đọc-tụng kinh-sách, sau mới cho con xuất-gia, con cũng chịu được, phương chi là chỉ có bốn tháng!

Đức Thế-Tôn bảo ông Tu-bạt-đà-la: “Đúng như thế, đúng như thế, ông Tu-bạt-đà-la! Tôi xem xét ý ông, đối với trong pháp Tôi ân-cần khát-ngưỡng, nay ông nói ra lời ấy, không phải là hư-thiết.”

Liền đấy, ông Tu-bạt-đà-la tới trước Phật, bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Con không nỡ trông thấy đấng Thiên-Nhân-Tôn nhập Niết-Bàn, hôm nay con muốn nhập Niết-Bàn trước đức Thế-Tôn!”

Đức Phật dạy: “Quý hóa thay! Được!”

Lúc đó, ông Tu-bạt-đà-la ngay ở trước mặt Phật nhập Hỏa-giới tam-muội, mà nhập Niết-Bàn.

TOÁT-YẾU

Thành Cưu-thi-na có một người tu ngoại-đạo, quán thông kinh-sách, thọ 120 tuổi tên là Tu-bạt-đà-la.

Xem kinh-sách ông biết đức Phật ra đời khó gặp được, nay đức Phật sắp nhập Niết-Bàn và còn có chút điều ngờ-vực, ông liền đi đến chốn Phật.

Đến nơi Sa-la, ông xin ông A-Nan cho vào yết-kiến Phật. Ông A-Nan từ chối, vì đức Phật đau và Ngài sắp nhập-diệt, không nên làm chướng-ngại.

Đức Phật dùng Thiên-nhĩ nghe biết, cùng xét rõ căn-cơ của ông ấy, Ngài bảo ông A-Nan cho vào.

Vào tới nơi, theo nghi-thức thăm hỏi xong, ông Tu-bạt-đà-la hỏi đức Phật: “Những người tu-hành của các đạo thời nay, ai cũng đều cho mình là được Nhất-thiết-trí, còn học-giả khác là tà-kiến; cho đạo mình là giải-thoát, đạo khác là sinh-tử. Phải, trái, hư, thực khó phân, xin Ngài giải-quyết giúp cho!”

Đức Phật đáp: “Đạo nào có Bát-thánh-đạo, có tên bậc Sa-môn, có giải-thoát, là được Nhất-thiết-trí! Trái lại là không được!”

“Khi Tôi còn ở Vương-cung, làm gì có tên thực Sa-môn. Hăm chín tuổi Tôi xuất-gia, băm sáu tuổi Tôi suy-nghĩ Bát-chính-đạo, chứng Nhất-thiết-chủng-trí, và sau đó, Tôi đến Lộc-giã độ cho bọn ông Kiều-Trần-Như 5 người, khi ấy mới có tên Sa-môn ra đời. Ông nên biết: pháp Tôi được giải-thoát, Như-Lai là Nhất-thiết-chủng-trí!”

Ông Tu-bạt-đà-la nghe đức Phật nói pháp ấy rồi, bỗng dưng đại-ngộ. Ông xin Phật xuất-gia, thành bậc Sa-môn.

Đức Phật lại dặn ông A-Nan sau đây có độ cho người ngoại-đạo, cần phải xem-xét trong 4 tháng đã!

Tới đây, ông Tu-bạt-đà-la không nỡ trông thấy Phật nhập Niết-Bàn, ông xin Phật, ông vào Hỏa-quang tam-muội, nhập Niết-Bàn trước.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11833)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10541)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12477)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14811)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52145)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13970)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14432)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57979)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14506)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20145)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13793)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15407)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17497)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14673)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11865)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12703)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant