Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 23785)
Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

MỤC LỤC
blankDuyên khởi tự 
Tiểu dẫn
Phẩm 1 - Tựa 
Phẩm 2 - Phương tiện 
Phẩm 3 - Thí du
Phẩm 4 - Tin giải
Phẩm 5 - Dược thảo dụ
Phẩm 6 - Thọ ký
Phẩm 7 - Hóa thành dụ
Phẩm 8 - Ngũ bách đệ tử thọ ký 
Phẩm 9 - Thọ học vô học nhơn ký
Phẩm 10 - Pháp sư
Phẩm 11 - Hiện bảo tháp
Phẩm 12 - Đề bà đạt đa
Phẩm 13 - Khuyến trì
Phẩm 14 - An lạc hạnh
Phẩm 15 - Tùng địa dũng xuất
Phẩm 16 - Như Lai thọ lượng 
Phẩm 17 - Phân biệt công đức
Phẩm 18 - Tùy hỉ công đức
Phẩm 19 - Pháp sư công đức
Phẩm 20 - Thường Bất Khinh Bồ tát 
Phẩm 21 - Như Lai thần lực
Phẩm 22 - Chúc lụy
Phẩm 23 - Dược Vương Bồ tát bổn sự
Phẩm 24 - Diệu Âm Bồ tát vãng lai
Phẩm 25 - Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn
Phẩm 26 - Đà la ni
Phẩm 27 - Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự
Phẩm 28 - Phổ Hiền, Bồ tát khuyến phát

Duyên Khởi Tự

Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là một bộ kinh được lưu truyền sâu rộng ở các nước Phật giáo theo hệ tư tưởng Đại Thừa. Ở Trung Quốc, vào thời Diêu Tần khoảng cuối thế kỷ thứ ba, Ngài Cưu-ma-la-thập, là một nhà sư người Ấn dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn với nhan đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Sư Quách Hoàng, sư Trúc Pháp Hộ dịch nhan đề là Chánh Pháp Hoa Kinh. Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật BảnViệt Nam những nước cùng một khuynh hướng ái-mộ tư-tưởng Đại Thừa đều tôn trọng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Ở Việt Nam khắp tòng lâm, tự viện, am thất chỗ nào không có kinh Pháp Hoa gần như chỗ đó được xem như thiếu Phật. Xem thế đủ biết “diệu lực” của Kinh Pháp Hoa, đức tin của người Phật-tử đối với Kinh Pháp Hoa thâm hậu biết chừng nào!

Việt Nam ta có hai bản dịch từ Hán-văn ra Việt-văn sớm nhất. Bản dịch của ông Đoàn Trung Còn xuất bản vào năm 1936. Bản dịch nầy, ở vào thời đại bấy giờ kinh Pháp Hoa chưa được phổ biến nhiều. Đến năm 1948 bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh ra đời, do Liên Hải Phật Học Đường xuất bản, có lẽ do thiên-thời, địa-lợi, nhơn-hoà, vì mầm chấn hưng Phật-giáo được manh nha từ thời điểm ấy cho nên bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh được phổ biến rộng, tái bản nhiều lần và truyền bá, thọ trì, đọc tụng hầu khắp tự viện, tòng lâm cho đến ngày nay.

Vấn đề: Vì sao đồng bào Phật-tử ham tụng Kinh Pháp Hoa? Có sự linh nghiệm, cảm ứng thế nào? Tôi xin phép miễn bàn về mặt đó.

Riêng tôi xin dâng hết tâm thành lên đức Phật, mà khắng định rằng: “ Tụng kinh giả, minh Phật chi lý” nghĩa là: Đọc kinh cốt để tìm hiểu giáo lý đức Phật muốn dạy gì cho mình.

Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, người có chủng-tánh Đại-thừa, có được ít nhiều tuệ-nhãn, nhìn vào như hạt ngọc kim cương. Tùy góc đứng khác nhau mà ngọc kim cương ảnh hiện màu sắc khác nhau, nhưng màu sắc nào cũng đều rực rỡ. Tùy khả năng tư duy tu của hành giảnhận thức cái “diệu nghĩa” của kinh một khác. Bởi lẽ đó, kinh Diệu Pháp Liên Hoa xuất hiệnTrung Quốc cũng như ở Việt Nam đến nay đã ngót hai ngàn năm mà sức sống ngày càng mạnh và rộng. Các tiền bối trong Phật giáo đã đầu tư trí tuệ, ra sức phát huy cái “diệu nghĩa”, “huyền nghĩa”, “thông nghĩa”, “mật nghĩa” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà hình như chưa có vị nào có thể cho là mình bằng lòng trọn vẹn. Bởi Kinh Pháp Hoa là kinh: “Duy hữu Phật dữ Phật cãi năng tri chi” (chỉ có Phật với Phật mới hiểu hết diệu lý của kinh). Tuy nhiên, mỗi ngài đều có cái tâm đắc, cái tuệ nhãn riêng để nhận thức tương đương với sự thâm ngộ và thể nhập của mình. Mỗi ngài viết ra thành tác phẩm giữ lại thành tài liệu nhằm ghi lại cái kết quả đó. Còn vấn đề đem lại lợi lạc ít hay nhiều cho tăng tín đồ Phật giáo, thì còn tùy thuộc nhân duyên, căn cơchủng tánh nữa.

Nhìn lịch sử nghiên cứu sớ thích giảng giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đã thấy trong quá khứ:

Pháp Hoa Văn Cú của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư
Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Sa-môn Cát Tạng
Pháp Hoa Du Ý của ngài Khuy Cơ
Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Nguyên Hiểu
Pháp Hoa Tông Yếu của ngài Minh Chánh
Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Cư-sĩ Chánh Trí

Và sinh tiền:

Pháp Hoa Cương Yếu của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh

Nhìn chung, sự nhận thứctriển khai của các Ngài, mỗi người một vẻ, vẻ nào cũng có cái hay cái diệu riêng của nó.

Tôi, một hậu học là một bần-tăng cô-lậu, có chút ít quá trình lạm dụng bút nghiêng vận dụng cái vốn của những bậc Thầy tôn kính của tôi: Hoà-thượng Thựơng Trí Hạ Tịnh, Hòa-thượng Thượng Thiện Hạ Hoà, Hoà Thượng Thượng Thiện Hạ Hoa … đã dày công uốn nắn giáo dục tôi và truyền thọ cho tôi phần gia bảo vô giá mà các ngài đã thừa kế sự nghiệp Như Lai để lại.

Tâm đắc nguồn tư-tưởng liễu-nghĩa Thượng thừa trác tuyệt của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, theo sở ngộ của mình tôi viết ra những tinh-hoa thâm-nghĩa ở sau mỗi phẩm của kinh văn đã được tóm lược và đặt cho giáo-án này cái nhan-đề: PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG.

Gọi là “giáo án” hay “giáo trình” cũng vậy, vì những kinh luận tôi biên soạn để triển khai, giảng dạy cho những người hậu học chớ không nhằm phục vụ cho tụng đọc cho nguyện cầu để được phước. Bởi vì, theo lời Phật dạy, người được phước phải là người chế ngự được những thói hư tật xấu, những bất-thiện-nghiệp của thân, khẩu, ý của mình.

Ngoài lý tưởng thiêng liêng đó, tôi hy vọng đền đáp phần nào công ơn của những bậc thầy tôn kính của tôi, đã lao tâm khổ trí đào tạo ra tôi. Tôi xúc động bùi ngùi khi ôn lại lời nhắc nhở, thiết-tha của tổ Qui Sơn: 

“Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu nghĩa lý truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phò trì, trụ chỉ oai nghi, tiện thị tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tòng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhơn phương năng quảng ích”. Có nghĩa là: Nếu mình chưa phải là bậc thượng lưu, vượt thắng bên kia bờ giác thì hãy để tâm nơi giáo-pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh-hoa, truyền bá tuyên dương, tiếp dẫn hậu lai, đó là cách trả ơn cho Phật tổ. Ngày giờ không nên bỏ luống, phải sử dụng nó trong việc rèn luyện thân-tâm. Khi đi cũng như lúc ở, sống đúng oai nghi để làm kho tàng đựng pháp trong chư tăng, há chẳng thấy dây sắn nương quấn cội tòng, nhờ có thắng duyên mà lên cao được đó sao?

Âm vang của Tổ giục-giã tôi tinh-tấn làm cái việc tuy nhẹ bổng mà đòi hỏi nội lực khá nặng-nề nầy.

 
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT

Mùa Xuân năm Giáp Tý 1984. DL

Pháp-sư: THÍCH TỪ THÔNG

Kính đề


 PHÀM LỆ

Đọc Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương kính mong độc giả lưu ý hai điểm sau đây:

1.Phần nguyên văn kinh được in chữ đứng, đó là phần dịch lược từ kinh Hán tự ra Việt văn.

2.Phần thâm nghĩa in chữ nghiêng để cho dể dàng phân biệt. Phần này do bỉ-nhân tôi đóng góp viết ra những điều tâm đắc bằng kiến giải của riêng mình. Hy vọng phần thâm nghĩa sẽ giúp cho độc giả manh mối để tư duy, gợi trí nhận xét trong tiến trình hiểu học tu theo con đường Phật.

Mấy lời kính cáo, mong độc giả lưu tâm.

Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG

Cẩn bạch


TIỂU DẪN

Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được gọi với cái tên giản lược là kinh Pháp Hoa. Để phân biệt với các kinh thuộc hệ tư tưởng Tiểu Thừa, gọi là Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanhmọi người thường không hay không biết. Cái Tri Kiến Phật ấy lúc thành Phật không phải nó mới sanh ra, lúc còn là phàm-phu nó tiềm tàng, ẩn-mật mà không hề sút giảm hao bớt tí nào. Trên bình diện Tri Kiến Phật, chúng-sanh và Phật, không hề có sự hơn kém thấp cao.

Với Phật-nhãn, nhìn qua lăng kính Bát-nhã Ba-la-mật thì “Tâm, Phật và chúng sanh” dù tên gọi có ba, mà thực chất không có phạm trù đơn vị riêng rẽ.

Cái ví dụ Liên Hoa, đức Phật vận dụng để chỉ bày một cách kín-đáo, về Phật chất, về khả năng thành Phật của mọi người. Rằng hoa sen nở toàn diện, hoa sen nở 70, 80 phần trăm; hoa sen vừa trồi lên khỏi nước; hoa sen đang trong nước; cho đến hoa sen còn lủi dưới bùn, dù mức độ lớn nhỏ khác nhau, thời gian sanh trưởng không đồng mà cái tánh đặc thù của hoa thì y nhau không hề sai khác; Gương, hạt ở ngay trong cánh nhụy và cánh nhụy bao trùm lấy gương hạt. Mượn đức tánh nầy, đức Phật “giới thiệu” cho mọi chúng sanh biết, rằng trong cái “nhân phàm phu” của các vị, còn có cái “quả Phật chất” ở ngay trong các vị, các vị chớ có khinh mình.

Hoa sen từ bùn nhơ nước đục mà ngoi lên, nhưng không vì nước đục bùn nhơ mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương thanh-thoát của nó. Với đặc-tánh đó, đức Phật chỉ dạy: “Hỡi tất cả chúng-sanh, các vị hãy vươn lên, tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Các vị hoàn toàn đủ tiêu-chuẩn thành Phật, dù các vị đang ở trong hoàn cảnh “Ngũ trược ác thế” của cõi nước đục “Ta bà”…

Phật chỉ là một hoa sen nở trước, nở toàn diện, hiển bày cánh, nhụy, gương, hạt một cách viên mãn, vậy thôi. Phàm Phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-Tát đều là sen tất cả. Tất cả chúng-sanh không nên tự khinh mình! Trong các vị, ai ai cũng đều sẵn có Tri Kiến Phật.

Cái “Đại sự nhân duyên” xuất thế của Như Lai nhằm:

· Giới thiệu Tri Kiến Phật cho chúng sanh.
· Chỉ rõ Tri Kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết.
· Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ về Tri Kiến Phật của mình
· Động viên chúng sanh sống đúng và sống hợp với Tri Kiến Phật mà mình vốn có.

Do vậy, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Và tư tưởng “thuần viên độc diệu” của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Thế Tôn ta với âm giọng hải triều tuyên bố”

“Tất cả chúng sanh đã thành phật”

Pháp-sư THÍCH TỪ THÔNG

Khể thủ
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12526)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10857)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10527)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11199)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12007)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13160)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13654)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33679)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13065)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11637)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17904)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11868)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11517)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18985)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12558)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11350)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15785)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11828)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11703)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12781)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12639)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13974)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13003)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12956)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13304)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12780)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12706)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11760)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12334)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12393)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11971)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16894)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12680)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15068)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12896)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12248)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11925)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11931)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16514)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12502)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11828)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19867)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11267)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10042)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant