Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 13 - Khuyến trì

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9323)
Phẩm 13 - Khuyến trì

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 13: KHUYẾN-TRÌ

Lúc bấy giờ Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ-tát quyến thuộc, ở trước Phật nói lên lời thề rằng:

Cúi xin Thế-Tôn chớ lo, sau Phật diệt độ chúng sanh tôi sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh trong đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm tham lợi háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó giáo hoá như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẩn lớn, trì tụng biên chép diễn nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân mạng để giáo hoá cho họ.

Bấy giờ trong đại chúng 500 A-la-hán đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ nguyện truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.

Lại có 8.000 vị hữu học, vô học cũng đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi nước khác giảng nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta-Bà phần lớn con người hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn, công đức cạn mỏng, hận thù, nịnh hót vì tâm không thành Phật.

Lúc bấy giờ bà Dì của Phật là Tỳ kheo ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu họcvô học, đổng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không tạm rời. Thế Tôn mới hỏi: Kiều-đàm-di! Vì cớ nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy? Phải chăng vì ta không kêu tên thọ ký cho chúng ngươi? Này Kiều-đàm-di, ta trước thọ ký tổng quát cho tất cả Thanh-Văn, nay ngươi đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau, ngươi sẽ làm Đại Pháp Sư của 68.000 Phật pháp còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu họcvô học, cũng sẽ làm Pháp Sư. Lần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất-thiết-chúng-sanh-hỉ-kiến Như Lai. Này Kiều-đàm-di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la thầm nghĩ: Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng mình chẳng nói tới tên? Phật kêu Gia-du-đà-la nói: Đời sau, trong năm ngàn vạn nước pháp môn của Phật, ngươi sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm Đại Pháp Sư, lần hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu Cụ-túc-thiên-vạn-quang-tướng Như Lai.

Kiều-đàm-di, Gia-du-đà-la và tất cả Tỳ kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng có.

Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các nước phương khác không?

Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức na-do-tha Bồ-tát. Các Bồ-tát này toàn là bậc bất-thối-chuyển và đã được các “tổng trì”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng: “Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật mà rộng nói kinh nầy”. Rồi lại nghĩ: “ Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng ta sẽ nói gì đây?”

Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thoả mãn sở nguyện của mình, các Bồ-tát bèn thề lớn trước Phật: “ Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh này, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh được như thế là toàn nhờ uy lực của Phật. Cúi xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ trì cho!”
 
 

THÂM NGHĨA

đệ tử Phật vấn đề Văn-tư-tu phải là một tiến trình liên tục không thể thiếu. Các vạc ba chân, thiếu một không đứng vững. Văn-tư-tu thiếu một, sẽ không có quả giải thoát giác ngộ.

Nguyện trì Kinh Pháp Hoa đồng nghĩa với nguyện tu theo Kinh Pháp Hoa, chấp thọ hành trì theo giáo lý Pháp Hoa. Đó là ý nghĩa trì kinh ở mặt tiêu cực. Về mặc tích cực, trì có nghĩa là xiển dương, là truyền bá, là biên chép, giảng nói cho nhiều người nhập Tri Kiến Phật. Chữ trì ở phẩm nầy gồm ý nghĩa của cả hai mặt đó.

Từ các phẩm trước được Khai Thị về Tri Kiến Phật. Đại chúng trong hội Pháp Hoa đã nhận thức rõ về “ Chánh nhơn thành Phật” của mình: Rằng Tri Kiến Phật hay là Phật tánh là cái mà tất cả chúng sanh bình đẳng có. Còn thành Phật hay sẽ thành Phật chỉ là vấn đề thời gian, cũng như sự phát triển sớm muộn của những hoa sen trong cánh đồng sen vậy. Điều kiện đất nước, thời tiết thuận lợi thì sen ở đây mọc sớm, trổ hoa sớm, hoa to và đẹp. Đất xấu, điều kiện trợ duyên kém thì hoa nở muộn… Dù muộn, nhưng tánh chất trong nhân có sẵn quả: quả ở chính trong nhân của tất cả hoa sen thì không có một mảy may sai khác.

Trì kinh là Duyên nhơn Phật tánhđiều kiện kích phát sức nảy nở làm cho hoa Tri Kiến nở nhanh, cũng như đất nước, thời tiết cần cho sự nảy nở hoa sen vậy.

Nhưng ai là người có khả năng trì kinh tốt nhất? Có gì khó khăn trở ngại trong việc trì kinh?

Có bốn hạng người có khả năng làm việc đó:

1. Hàng Đại Bồ Tát (những người giàu đức tánh vô ngã vị tha)

2. Bậc A-la-hán (những người trừ sạch nhân hữu lậu trong ba cõi)

3. Hàng hữu học vô học (những bậc nhập lưu, đi theo chiều hướng giác ngộ giải thoát)

4. Hàng Tỳ Kheo Ni (những người quyết tâm tu giải thoát)

Trì kinh với nghĩa tiêu cực thì tất cả giống nhau, bốn hạng người có cùng ý chí ham tu hiếu học đối với Kinh Pháp Hoa.

Nhưng về mặc tích cực, phát nguyện trì kinh phải có điều kiện:

- Phải có nhiệt tình, vô ngã vị tha

- Phải có khả năng nghị lực

- Phải có trình độ kiến thức nội minh

- Phải có biện tài chinh phục vv…

Bởi lẻ địa bàn hoạt động truyền bá Kinh Pháp Hoa không phải ở lãnh vực nào cũng thuận lợi, ở quốc độ nào cũng dễ dàng.

Ta hã nghe về tinh thầ bất khuất chuẩn bị chịu đựng sự khó khăn của những Bồ tát tự nguyện trì Kinh Pháp Hoacõi Ta Bà, qua bài kệ dưới đây:

Cúi mong Phật chớ lo

Sau Phật diệt độ rồi,

Trong đời ác ghê sợ

Chúng con sẽ rộng nói

Dầu có người không trí

Dùng lời ác mắng rủa…

Cùng gậy dao đập chém

Chúng con đều sẽ nhẫn

Dầu Tỳ Kheo đời ác

Trí tà-dâm vạy méo,

Chưa chứng, xưng đã chứng

Kiêu căng đầy trong lòng,

Hoặc có hạng “A-nhã”

Y, nạp xem ra phết,

Tự cho hành nhân đạo,

Xem nhẹ người thế gian:

Vì lòng tham lợi dưỡng,

Thuyết pháp cho bạch y

Với ý được cung kính

Như lục thông La Hán

Lòng hạng ấy chứa ác

Thương nghĩ việc thế tục

Giả danh A-luyện-nhã

Bới sai lầm chúng con

Mà nói những lời này:

Các thầy Tỳ kheo ấy

Vì lòng tham lợi dưỡng,

Luận giả theo ngoại đạo

Tự tạo kinh điển này,

Láo dối người thế gian.

Hoặc vì cầu danh tiếng

phân biệt kinh nầy.

Hoặc thường trong đại chúng,

Muốn nói xấu chúng con;

Hướng nhà vua, quan lớn

Bà-la-môn, nhà giàu

Cùng các Tỳ kheo khác

phỉ báng chúng con:

Bảo chúng con tà kiến

Luận giải theo ngoại đạo.

Vì lòng kính tin Phật,

Chúng con đều sẽ nhẫn.

Dầu họ có khinh khi,

Tự xưng là Phật sống,

Trước lời kiêu ngạo ấy,

Chúng con cũng sẽ nhẫn.

Trong đời ác kiếp trược,

Có nhiều sự sợ hãi,

Các quỉ nhập thân người

Mắng rủa nhục chúng con, 

Chúng con kính tin Phật,

Sẽ mang giáp nhẫn nhục.

Để giảng nói kinh nầy, 

Chúng con sẽ nhẫn mọi khó.

Thân mạng không hề tiếc

Chỉ tiếc vô thượng đạo.

Chúng con trong đời sau, 

Sẽ giữ gìn lời Phật.

Thế Tôn sẽ tự biết:

Tỳ kheo đời ác trược

Không biết Phật phương tiện

Tuỳ nghithuyết pháp,

Châu mày dùng miệng ác,

Lúc lúc đuổi chúng con.

Xa lìa nơi chùa tháp.

Các việc ác như thế

Nhớ lời Phật dạy bảo,

Chúng con sẽ nhẫn hết

Nơi thành ấp, tụ lạc

Nếu có người cầu pháp

Chúng con đều đến nơi

Nói pháp của Phật truyền

Chúng con là sứ Phật

Ở trong chúng không sợ

Vì thiện sẽ nói pháp,

Xin Phật hãy an lòng.

Nay đứng trước Thế Tôn

Cùng mười phương chư Phật

Chúng con có lời thệ này,

Phật ắt tự rõ lòng con
 
 

Sự khó khăn của Bồ-tát trì kinh Pháp Hoacõi Ta Bà như thế đấy. Tìm hiểu nguyên nhân ta thấy:

Phát xuất từ hàng Tỳ Kheo được mệnh danh là Tăng-Thượng-Mạn. Họ tự bảo thủ quả vị La-Hán cho là cứu cánh Niết Bàn, không có ý mong cầu thành Phật. Từ mặc cảm tự ti nầy họ chống đối phỉ báng Kinh Pháp Hoa.

Xuất phát từ lòng Tỳ Kheo mưu cầu lợi dưỡng; hạng người nầy cố chấp tự tôn, cho rằng mình, chỉ có mình là người tu chơn đạo khả kính trên thế gian nầy. Còn tất cả người thế gian không ai có thể đạt đến cái chơn đạo của họ tu chứng.

Trong khi nền giáo lý Pháp Hoa chủ trương Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến; tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành. Quả là một tạc đạn bắn ra sụp đổ một lúc hai toà thành bảo thủ tự ti và cố chấp tự tôn của hai hạng người tiêu nha bại chủng ấy. Do đó, bằng mọi cách họ công kích, phỉ báng những Bồ Tát Trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoacõi Ta Bà. Vì thế, phát nguyện trì kinh ở cõi Ta Bà chỉ có Bồ Tát Đại Dược Vương, vua của y-dược-sĩ, có khả năng trị bệnh tà kiến tự tôn, tự ti của thế nhân và Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết, nhà biện tài vô ngại, có khả năng tồi tà phụ chánh, cầm đầu thì việc làm mới thành tựu tốt đẹp. Nói rõ ra là muốn xiển dương truyền bá Kinh Pháp Hoa ở vào đời ngũ trược nầy phải là người có những đức tánh của một Bồ-tát vô ngã, vị tha, cương nghị, quả cảm, thông minh, trong đó nội minh phải vững vàng, có biện tài, có khả năng thuyết phục, giải đáp được những chấp mắc sai lầm… thì mới đủ điều kiện triển khai truyền bá Kinh Pháp Hoa; nếu không có những yếu tố cần thiết đó thì khó mà trì kinh ở cõi đời lắm người “tự ti”, lắm người “ tự tôn” vì mưu cầu hư danh huyễn lợi nầy.

Hàng Đại A-La-Hán, những người hữu học vô học, các hàng Tỳ kheo ni, trước Phật có phát tâm nguyện trì kinh; nhưng không ở trong hàng ngũ của Bồ-tát Đại Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết thì xin đi nước khác mà trì, vì ở nước khác sẽ được an lành hơn, không có đối lập nguy hiểm như ở cõi Ta Bà. Biện tài không giải đáp nổi nghĩa lý thậm thâm; trí lựcpháp lực không đủ khả năng trị liệu các bệnh tà kiến, biên kiến, kiến thủ của người đời thì nê đi “ cõi khác” mà truyền bá Kinh Pháp Hoa vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12528)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10858)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10528)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11202)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12008)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13166)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33679)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11343)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13067)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11642)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17904)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11519)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18986)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12562)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11350)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13156)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15787)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11830)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12782)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12641)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13977)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13005)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13305)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12781)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12715)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11762)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12345)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12393)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11974)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16895)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12897)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12250)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11932)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16516)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11267)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10043)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant