Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật

23 Tháng Mười 201000:00(Xem: 20056)
Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật


KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT


Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch Việt

 

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác

 

Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thương Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

Phật nói Kinh Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật

Chính tôi được nghe một thời Ðức Bạt Già Phạm ở thành Vương Xá, với chúng đại Tỳ Kheo.

Bấy giờ Ngài đại trí Xá Lợi Phất là bậc tối thắng trong hàng pháp tướng, thương xót thế gian, từ toà đứng lên, hở y vai bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con có một ít chuyện muốn hỏi, xin Ðức Phật vui lòng nghe cho !

Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng : Tuỳ ngươi muốn hỏi, ta sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi Ðức Thế Tôn rằng :

Ðại Sư đã thụ ký

Ðương lai Phật hạ sinh

Danh hiệuTừ Thị

Như trước sau Kinh nói.

Xin đấng Nhân Trung Tôn

Phân biệt lại lời tụng

Thần thông oai đức kia

Nay con muốn được nghe

Phật bảo Xá Lợi Phất !

Nên chí tâm nghe kỹ:

Ðương lai đấng Từ Thị

Vì người rộng tuyên nói

Bấy giờ nước biển lớn

Giảm dần đến ba ngàn

Hai trăm Du thiên na

Vì tỏ đường luân vương

Thiệm bộ châu ngang dọc

Cả vạn Du thiên na

Hữu tình ở trong đó

Xứ ấy đều xung mãn

Quốc độ đều giàu thịnh

Không hình phạt tai ách

Các con trai con gái

Ðều do nghiệp thiện sinh

Ðất không có gai gốc

Chỉ sinh cỏ xanh mềm

Chân đi đạp lên trên

Ví như vải tơ lụa

Tự nhiên mọc lúa thơm

Mùi ngon đều sung túc

Các cây sinh áo mặc

Tơ lựa đều trang nghiêm

Cây cao ba Câu xá

Hoa quả thường sung thực

Thời đó người trong nước

Ðều thọ tám vạn tuổi

Không có các bệnh khổ

Lìa não thường an lạc

Tướng đủ đều trang nghiêm

Sắc lực đều viên mãn

Người có ba thứ bệnh

Ăn suy già tiện lợi

Con gái năm trăm tuổi

Mới kết làm hôn nhân

Khi muốn đi tiện lợi

Ðất sé mà dung thụ

Mạng người sắp muốn hết

Tự đến rừng Thi lâm

Thành tên Diệu Tràng Tướng

Là đô của Luân Vương

Ngang mười hai do tuần

Rộng lượng bảy do tuần

Những người ở trong đó

Ðều từng trồng nhân lành

Thành này có thắng đức

Ở đây đều hoan hỉ

Lâu đài và khước địch

Dùng bảy báu làm nên

Ðóng khoá và môn đình

Ðều dung báu trang nghiêm

Tường vây quanh ao hào

Ðều làm bằng châu báu

Hoa đẹp đều sung mãn

Chim tốt đều bay đậu

Bảy hàng cây Ða la

Ðều mọc vây chung quanh

Các báu dùng trang nghiêm

Ðều treo lưới chuông báu

Vang ra những tiếng hay

Cũng như tấu bát âm

Nghe rồi sinh hoan hỉ

Nơi nơi có hồ ao

Ðầy tràn các thứ hoa

Vườn rừng mọc hoa thơm

Trang nghiêm cho thành quách

Trong nước có Thánh Chúa

Tên hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương bốn châu

Giàu thịnh nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Dũng mãnh gồm bốn binh

Bảy báu đều thành tựu

Ngàn con thảy đều đủ

Bốn biển đều thanh bình

Không có chiến binh đao

Chánh pháp dạy quần sinh

Giáo hoá đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Ðều ở trong các nước

Mỗi kho tàng đều có

Châu báu trăm muôn ức

Trong nước Yết Lăng Già

Có kho Băng Kiệt La

Trong nước Mật Si La

Có kho Bát Trục Ca

Kho Y La Bát La 

Ðể ở nước Kiện Ðà

Ở nước Ba Tư Nặc

Kho tên là Hướng Khư

Ðó là bốn kho tàn

Ðều thuộc vua Hướng Kh

Là của do trăm phước

Quả báo đều thành tựu

Quan đại thần giúp nước

Bà La Môn Thiện Tịnh

Bốn minh đều sáng suốt

Ða văn làm quốc sư

Bác thông các tạp luận

Thiện giáo hữu văn từ

Dạy giải các thanh minh

Không chẳng làu hiểu suốt

Cô gái tên Tịnh Diệu

Làm phu nhân đại thần

Tiếng khen tướng đoan nghiêm

Ai thấy đều vui mừng

Ðại trượng phu Từ Thị

Từ cõi trời Hỷ Túc

Sinh vào phu nhân kia

Mượn chỗ sinh thân mình

Bà mang thai đại Thánh

Ðược đầy đủ mười tháng

Ngày kia Từ Tôn mẫu

Ði đến vườn Diệu Hoa

Vào dạo vườn hoa đó

Chẳng ngồi cũng chẳng nằm

Sẽ vịn cành cây hoa

Chợt sinh đấng Từ Tôn

Khi đó đấng Tối Thắng

Ra bên hông phải mẹ

Như mặt trời tan mây

Khắp phóng đại quang minh

Chẳng nhiễm súc bào thai

Như sen vượt khỏi nước

Hào quang chiếu ba cõi

Ðều chiêm ngưỡng Ðại Từ

Ðương khi lúc giáng sinh

Thiên nhãn trời Ðế Thích

Tự thân rước Bồ Tát

Mừng gặp đấng Lưỡng Túc

Bồ Tát đương khi đó

Tự nhiên đi bảy bước

Mà ở dưới lót chân

Ðều mọc hoa sen báu

Xem khắp cả mười phương

Bảo các chúng trời người :

Thân ta đây cuối cùng

Vô sinh chứng Niết Bàn

Rồng mưa nước trong mát

Tắm gội thân Ðại Từ

Trời rải hoa đẹp lạ

Hư không gió nhẹ nhàng

Chư thiên mang lọng trắng

Cầm che Ðấng Từ Tôn

Ðều sinh tâm ít có

Giữ gìn cho Bồ Tát

Mẫu thân ẵm Bồ Tát

Ba mươi hai tướng tốt

Ðầy đủ các quang minh

Phụng trì trao từ mẫu

Ngự giá dâng xe vua

Ðều dùng báu trang nghiêm

Mẹ con đều lên xe

Chư thiên cùng đẩy xe

Ngàn thứ âm nhạc hay

Dẫn đường về hoàng cung

Tự Thị vào đô thành

Hoa trời rải như mưa

Ngày Từ Tôn giáng đản

Các phụ nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Ðều sinh trai trí huệ

Thiện Tịnh cha Từ Tôn

Coi tướng con kỳ diệu

Ðủ ba mươi hai tướng

Lòng sinh đại hoan hỉ

Cha theo pháp chiêm đoán

Biết con có hai tướng :

Ở đời làm Luân Vương

Xuất gia thành Chánh Giác

Bồ Tát đã thành lập

Thương xót các quần sinh

Trong mọi khổ hiểm nạn

Luân hồi thường không ngừng

Sắc vàng quang minh sáng

Thanh âm như Ðại Phạm

Mắt như hoa sen xanh

Chi thể đều viên mãn

Thân dài tám mươi khửu

Vai rộng hai mươi khửu

Mặt rộng lượng nửa vai

Tướng trăng tròn đoan nghiêm

Bồ Tát biết mọi nghề

Khéo dạy thụ học ấy

Số trẻ nhỏ xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Khi đó vua Hướng Khư

Kiến lập bảy tràng báu

Tràng cao bảy mươi tầm

Rộng khoảng sáu mươi tầm

Tràng báu tạo thành rồi

Vua phát tâm đại xả

Cho các Bà la môn

Thiết lập hội vô già

Khi đó các Phạm Chí

Số có một ngàn người

Ðược tràng báu đẹp đó

Khoảng chốc lát hư hoại

Bồ Tát thấy thế rồi

Nghĩ thế tục đều vậy

Sinh tử khổ trói buộc

Nghĩ cầu được xuất ly

Duy có đạo tịch diệt

Liền bỏ tục xuất gia

Trong sinh già bệnh chết

Cứu cho được thoát khỏi

Từ Tôn phát nguyện rằng :

Tám vạn bốn ngàn người

Ðều sinh tâm nhàm lìa

Cùng theo tu phạm hạnh

Lúc ban đầu phát tâm

Bỏ tục mà xuất gia

Ngay ở trong đêm đó

Thẳng lên ngôi Ðẳng Giác

Thời có cây bồ đề

Tên gọi là Long Hoa

Cao bốn Du thiên na

Um tùm xanh tươi tốt

Cành lá toả bốn bên

Che sáu Câu lư xá

Từ Thị Ðại Bi Tôn

Dưới cây thành Chánh Giác

Tối thắng nhất trong người

Ðủ tám tiếng phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sinh

Khiến lìa các phiền não

Khổ và nơi khổ sinh

Tất cả đều trừ diệt

Hay tu Bát Chánh Ðạo

Lên bờ Niết Bàn kia

Vì các thanh tín sĩ

Nói đạo bốn Chân đế

Ðược nghe diệu pháp ấy

Chí thành mà phụng trì

Ở trong vườn Diệu Hoa

Các chúng như mây tụ

Ðầy trong trăm Do tuần

Quyến thuộc đều đầy dẫy

Vua Luân Vương Hướng Khư

Nghe pháp thâm diệu rồi

Xả hết các châu báu

Phát tâm xin xuất gia

Chẳng luyến tiếc cung điện

Chí cầu được thoát khỏi

Tám vạn bốn ngàn chúng

Ðều đi theo xuất gia

Lại tám vạn bốn ngàn

Ðồng tử Bà la môn

Nghe vua bỏ thế tục

Cũng đến cầu xuất gia

Trưởng giả chủ tạng thần

Tên gọi là Thiện Tài

Cùng với ngàn quyến thuộc

Cũng đến xin xuất gia

Nữ báu Tỳ Xá Khư

Và con các thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến cầu xuất gia

Lại hơn trăm ngàn số

Người thiện nam thiện nữ

Nghe Phật nói diệu pháp

Cũng đến cầu xuất gia

Ðấng hơn hết trời người

Ðại từ bi Thánh chúa

Khắp quán các tâm rồi

Bèn diễn nói pháp yếu

Bảo các người nên biết :

Từ Bi Thích Ca chúa

Dạy người tu chánh đạo

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc lấy hương tràng hoa

Phướng phan lọng nghiêm sức

Cúng dường Mâu Ni chúa

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc vật kim trầm thuỷ

Hương nê dùng bôi thoa

Cúng dường tháp Mâu Ni

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc quy Phật Pháp Tăng

Cung kính thường gần gũi

Nên tu các hạnh lành

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc ở trong Phật pháp

Thụ trì theo chỗ học

Khéo giữ không khuyết phạm

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn phương Tăng

Cúng y phục ăn uống

Gồm cả thuốc thang hay

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn thời chay

Và ở thần thông nguyệt

Thụ trì tám chi giới

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc dùng ba thứ thông

Thần cảnh ký truyền dạy

Hoá đạo chúng Thanh Văn

Khiến trừ hết phiền hoặc

Hội đầu vì thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi sáu ức người

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi bốn ức người

Khiến qua biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi hai ức người

Khiến tâm khéo điều phục

Ba lần nói pháp rồi

Trời người đều thuần tịnh

Dẫn các chúng đệ tử

Khất thực ở trong thành

Ðã vào thành Diệu Tràng

Ðường xá đều nghiêm sức

cúng dường Phật vậy

Trời mưa hoa Mạn đà

Tứ vương và Phạm Vương

Cùng với các thiên chúng

Dâng hương hoa cúng dường

Ðấng Ðại Từ Bi Tôn

Ðại oai đức chư thiên

Tán rải y phục đẹp

Chung quanh khắp thành ấp

Chiêm ngưỡng Ðại y vương

Dùng báu đẹp hương hoa

Rải trên các đường xá

Dùng để đi ở trên

Ví như bông tơ lụa

Âm thanhtràng phan

Bày hàng hai bên đường

Trời người chúng Ðế Thích

Khen ngợi đấng Ðại Từ

Nam Mô Thiên Thượng Tôn

Nam Mô Sĩ Trung Thắng

Lành thay Bạt Già Phạm !

Hay thương xót thế gian

Có trời Ðại Bi Ðức

Ðương làm vua chúng ma

Quy tâm chắp tay lễ

Chiêm ngưỡng đức Ðạo Sư

Phạm Vương các thiên chúng

Quyến thuộc mà vây quanh

Ðều dùng tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần nhiều A la hán

Từ bỏ nghiệp hữu lậu

Xa lìa khổ phiền não

Trời người chúng long thần

Càn Thát A tu la

La SátDược Xoa

Ðều hoan hỉ cúng dường

Khi đó các đại chúng

Dứt chướng trừ nghi hoặc

Vượt qua dòng sinh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chúng

Lìa trược bỏ của báu

Vô ngã, ngã sở tâm

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chún

Phá tan lưới tham ái

Viên mãn tâm vắng lặng

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Ðấng Từ Thị trời người

Thương xót loài hữu tình

Sống lâu sáu vạn tuổi

Thuyết pháp độ chúng sinh

Hoá đủ trăm ngàn ức

Khiến qua biển phiền não

Có duyên đều cứu vớt

Mời vào cõi Niết Bàn

Ðấng Từ Thị Ðại Bi

Sau khi vào Niết Bàn

Chánh pháp ở lại đời

Cũng đủ sáu muôn năm

Nếu ở trong pháp ta

Tin sâu mà thọ trì

Ðương lai ngày hạ sinh

Phụng thờ đấng Ðại Bi

Nếu có thông tuệ ấy

Nghe nói việc như thế

Ai chẳng khỏi ham vui

Nguyện gặp đấng Từ Thị

Nếu người cầu giải thoát

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam Bảo

Siêng tu đừng phóng dật.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn vì ông Xá Lợi Phấtđại chúng nói việc đương lai đức Từ Thị rồi. Lại bảo Xá Lợi Phất rằng : Nếu có người thiện nam thiện nữ nghe pháp nầy rồi, thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, theo như trong Kinh mà tu hành, dùng hương hoa cúng dường, viết chép Kinh điển, thì những người đó, đời đương lai sẽ được gặp đấng Từ Thị hạ sinh, ở trong ba hội được nhờ ơn cứu độ.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài kệ xong, Xá Lợi Phấtđại chúng hoan hỉ tin thọ phụng hành.

Ðại từ đại bi thương chúng sinh

Ðại hỉ đại xả cứu muôn loài

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần)

Na Mô Di Lặc Tôn Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

 

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27175)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21309)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23220)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18436)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19957)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19042)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23148)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23876)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22790)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29568)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18854)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19666)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20151)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22929)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24057)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29129)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30950)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21007)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26265)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23322)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24673)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30032)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20220)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20402)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23878)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant