Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương mười một

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9356)
Chương mười một

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI MỘT

57.-ÂM:

"Tu Bồ Đề! Như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa ninh vi đa phủ?".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Như dùng số cát trong sông Hằng mà ví dụ có những sông Hằng khác nhiều bằng số cát như vậy.

 - Ý ông thế nào? Số cát của những sông Hằng ấy sao ? Có nhiều chăng ?".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Xứ Tây Thổ có con sông kêu là sông Hằng. Phật hay dùng cát của sông ấy mà nói, là bởi chúng nhơn thường thấy nên mượn đặng ví dụ cho dễ hiểu.

Phật cũng dùng cát ấy mà hỏi ông Tu Bồ Đề: "Nhiều chăng? Là muốn cho biết trước số cát ấy là thật nhiều, rồi sau mới nói".

Chữ "ninh"  nhà nho thủ nghĩa như chữ khởi, như thử  là "làm sao" là của thầy phiên dịch dùng để làm chữ trợ, không cần phải khảo nghĩa.

58.-ÂM:

Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn ! đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa ! ".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Những sông Hằng còn nhiều vô số thay, huống chi là cát!".

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Như Hằng hà trung sở hữu sa số  là mỗi hột cát thì một sông Hằng, mà nói số cát của những cả thảy sông ấy, vậy thì sông Hằng còn nhiều vô số thay, huống chi là cát.

Xuyên Thiền sư giải: Trước ba ba, sau cũng ba ba.

Tụng:

Tằng mằng đếm cát một, hai, ba;

Cát ví sông Hằng số quá đa.

Trước mắt ngắm xem không một pháp.

Mới là tịch tịnh, Tát bà ha.

59.-ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ngã kim thiệt ngôn cáo nhữ! Nhược hữu: Thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ thất bảo mãn nhĩ sở hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới dĩ tụng bố thí, đắc phước đa phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn!".

 Phật cáo Tu Bồ Đề: "Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng vị tha nhơn thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Nay ta bảo thiệt ngươi! Nếu có : trai lành, gái tín nào, dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới ấy, đem ra mà bố thí, có đặng phước nhiều chăng?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều".

 Phật bảo Tu Bồ Đề: "Bằng trai lành, gái tín nào thọ trì theo trong kinh này cho đến những tứ cú kệdiễn thuyết lại cho người khác, thì phước đức ấy hơn phước đức trước kia".

 

Giải : Triệu Pháp sư giải: Bởi cái phước bố thí  thì còn nhiễm nên còn chìm đắm trong tam hữu  (ba cõi). Còn phước  trì kinh  thì thanh tịnh, siêu thăng qua bờ kia đặng, cho nên nói: "Hơn".

Sớ Sao giải: Phật lại nói rõ phước  vô vi hơn phước hữu vi - Kinh Viên Giác có nói: "Có pháp môn Đại Đà la ni  kêu là  Viên Giác; lưu bố ra cả thảy tánh chơn như Niết bàn".

Như vậy thì nếu khôngTứ cú kệ  trong kinh này làm sao mà  Viên Giác  diệu tánh đặng? Bởi Viên Giác  diệu tánh nên lưu bố ra cả thảy pháp  Chơn như, lý của Niết bàn; cái nẻo chẳng sanh chẳng diệt từ đó mà ra.

Nghĩa nhiệm mầu này cũng đồng với nghĩa trong phần thứ tám.

Tỏ đặng như vậy, thọ trì không bỏ, tự lợi lợi tha, khắp cùng loại hữu tình đều rõ đạo ấy; phước ấy tức là phước  vô vi, hơn phước  bố thí  bảy báu hằng hà kia. Vậy nên đệ này mới gọi là đệ "Vô Vi phước lớn".

Vương Nhựt Hưu giải: Phật lại bảo ông Tu Bồ Đề: "Như trai lành, gái tín nào thọ trì theo nghĩa lý trong kinh này, cho đến những Tứ cú kệ rồi giảng giải lại cho người khác thì đã khỏi ác nghiệp buộc ràng, mà lại đặng tỏ ngộ chơn tánh. Còn người nghe đặng cái chí lý này, rồi cũng lần lần tỏ ngộ chơn tánh".

Lâu ngày thì căn lành viên mãn: Siêu thoát luân hồi, khỏi vòng sanh tử, muôn kiếp cũng không cùng tột. Cho nên phước đức ấy nhiều hơn phước  bố thí  bảy báu đầy cả hằng hà thế giới kia đến vô lượng vô số.

Phật thường nói thí của có khi hết, thí pháp hưởng không cùng; thí của chẳng siêu khỏi cõi trần, thí pháp thoát ra khỏi ngoài  tam giới.

Ấy vậy thì phước thí pháp hơn phước kia vô lượng vô số, chẳng có chi là lạ cả.

Trần Hùng giải: Bảy báu tuy nhiều, bất quá là vật hữu hạn của nhơn gian, dùng mà bố thí, thì chỉ đặng cái phước hữu hạn mà thôi. Bằng sánh với câu kệ trong kinh này, nếu ngộ đặng thì sanh về Thiên giới, há không phải là hơn kém cách xa nhau cả muôn triệu hay sao?

Kinh Tam Muội có nói: "Nếu như có người đem vàng bạc đầy cả thành mà  bố thí, cũng chẳng bằng người  thọ trì "Tứ cú kệ" của kinh này".

Nay có trai lành, gái tín nào, mà thọ trì kệ ấy chẳng những là rõ đặng tự tánh, lại giảng giải cho người cũng kiến tánh nữa, thì cả hai đều đặng sanh về Thiên giới thành đạo  Vô thượng Bồ đề, xem lại cái phước bảy báu kia vẫn không đủ luận. Cho nên nói: "Hơn phước đức trước kia".

Kinh Hoa Nghiêm có nói:

 

Như vật báu trong xó,

Không đến không thấy rõ

Phật pháp chẳng ai truyền, 

Tuy huệ cũng không ngộ.

 

Vậy thì các công đức giảng giải còn có chi là lớn hơn.

Nhan Bính giải: Đem bảy báu đầy cả thế giớibố thí, đặng phước tuy nhiều, nhưng thuộc về phước hữu lậu, thì chưa khỏi đặng sự cùng tận, chẳng bằng thọ trì  Tứ cú  trong kinh này, rồi giảng dạy lại người khác, tỏ đặng chỗ "tri kiến" của Phật, thì phước đức ấy lịch kiếp vẫn còn. Cho nên nói: "Hơn phước đức trước tướng kia".

Lý Văn Hội giải: Thậm đa Thế Tôn : là  bố thí bảy báu đầy cả hằng hà tam thiên thế giới, đặng phước rất nhiều. Thọ trì Tứ cú kệ: Ông Xuyên Thiền sư đã có giải rõ trong phần Ứng hóa phi chơn đệ ba mươi hai.

Vị tha nhơn thuyết: là nếu giải kinh nghĩa Đại thừa này mà giáo hóa chúng sanh tỏ ngộ cái lòng: "Trụ chỗ không trụ" "đặng phép không đặng". Phải biết thọ trì kinh này là công đức  vô vi hơn phước đức hữu viphước đức  bố thí  bảy báu đầy cả hà sa thế giới.

Trí Giải Thiền sư giải:

Tụng:

Kể sông Hằng đã quá, Những cát lại càng nhiều.

Chứa báu bằng như thể, Thí tài số biết bao.

Chấp mê theo tướng giả. Lừng lẫy nhận tài cao.

Sánh với bốn câu kệ, Phước kia có chút nào.

 

 

Xuyên Thiền sư giải: Thau thiệt cũng không đổi vàng đặng.

Tụng:

 

 

Đếm cát sông Hằng luống cực thân.

Lăng xăng sao khỏi, cảnh lao trần.

Đâu bằng tu dưỡng chơn như tánh,

Cây rụi đơm chồi đẹp vẻ xuân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12568)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10482)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12431)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11735)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28896)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12118)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13086)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11515)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12444)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17547)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53233)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35591)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21582)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10750)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19375)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12516)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26202)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13422)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14476)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16163)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13818)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16946)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17723)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13240)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12610)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11693)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11702)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14602)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20616)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19161)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19704)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18803)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12261)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12414)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13968)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15167)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15127)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14059)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15605)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11484)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17295)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15088)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20320)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14691)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13936)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11797)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15144)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13065)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22982)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14626)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11744)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13240)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16969)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18419)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12004)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11575)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15941)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12965)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19001)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18545)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant