Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11120)
Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 16

TRẬT TỰ VÀ HÌNH THÀNH Ý TƯỞNG

Madras, ngày 8 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Cản trở lớn nhất đối với sự nhận biếtý tưởng. Sự khác nhau giữa sự kiệný tưởng về một sự kiện là gì?

Krishnamurti: Những người chuyên môn hiểu sự nhận biết, thấy, sự kiện như thế nào?

R: Trong Vedanta, nó được nói rằng ý thức hành động qua những cơ quan thuộc giác quan. Nó thấy một vật. Ý thức thâu nhận hình dạng của vật đó. Nó giống như nước đang thâu nhận hình thể của con tàu. Đó là sự nhận biết.

Krishnamurti: Sự nhận biết, thấy, đối với bạn là gì? Bạn thấy cái tủ, bạn có hình ảnh của cái tủ, vì vậy, công nhận nó như cái tủ. Khi bạn thấy món đồ đạc đó, liệu bạn có hình ảnh trước hay bạn thấy trước, có hình ảnh rồi sau đó công nhận?

R: Ngay tức khắc hình ảnh nảy sinh, rồi sau đó chúng ta gọi nó là một cái tủ.

A: Có thấy và đặt tên ngay tức khắc.

Krishnamurti: Vì vậy tôi không có hình ảnh trước. Có thấy, liên tưởng, công nhận, đặt tên. Tôi không bắt đầu bằng đặt tên, hình ảnh. Điều đó khá dễ dàng. Tôi thấy bạn sáng nay, tôi đã thấy bạn ngày hôm qua và, thế là, có một hình ảnh của bạn. Vì vậy hình ảnh đó là bạn. Liệu có một khác biệt giữa sự vật thuộc vật chất của sự nhận biếthình ảnh thuộc tinh thần của sự nhận biết?

A: Có một khác biệt giữa hai. Một cái thuần túy là một hình ảnh của một hình thể như trong trường hợp của một vật, cái còn lại là một hình ảnh được tạo tác bởi những phản ứng, mà không chỉ là hình dáng và hình thể.

Krishnamurti: Hãy đưa ra một ví dụ. Bạn thấy một con rắn. Những tế bào não bị quy định đến những con rắn; chúng biết rằng con rắn là nguy hiểm. Bộ não bị quy định từ thời niên thiếu đến sự nguy hiểm của một con rắn và thế là nó phản ứng. Đứa trẻ, vì không biết sự nguy hiểm, có lẽ không phản ứng, nhưng người mẹ hiện diện và chỉ rõ sự nguy hiểm của nó.

 Cái tủ, bức tranh, sự đặt tên về nó, đã hình thành một bức tranh trong những tế bào não. Thế là, tôi nói nó là một cái tủ. Những tế bào não đã bị quy định bởi một môi trường sống đặc biệt để gọi nó là một cái tủ.

A: Vì vậy, vấn đề là, trước khi thấy sự kiện, ý tưởng về sự kiện nảy sinh mà có lẽ không nhất thiếtsự kiện.

Krishnamurti: Bạn đang nói rằng có bạo lực, người ta cảm thấy tức giận, sau đó đặt tên của cảm thấy và đặt tên là củng cố quá khứ?

A: Tôi gặp người em của tôi. Em ấy đã cãi cọ với tôi và tôi cảnh giác khi tôi gặp lại em ấy lần sau. Vì vậy tôi không thể thấy em ấy ngay tức khắc. Tôi chỉ thấy ý tưởng.

R: Những tế bào não mang hình ảnh của sự tổn thương.

Krishnamuri: Có bạo lực, tức giận. Tại khoảnh khắc của tức giận, không có sự đặt tên. Một giây sau, tôi gọi nó là tức giận. Sự đặt tên của cảm thấy đó như tức giận là ghi lại sự kiện đó và củng cố quá khứ, ký ức, mà đã công nhận cảm thấy đó như tức giận.

R: Đây là cái gì đó mà khác biệt sự đặt tên.  

Krishnamurti: Chúng ta đang đến đó. Có cái tủ, có con người, tiếp theo tất cả những phản ứng thuộc cảm xúc. Người ta tức giận, tại khoảnh khắc tức giận không có đặt tên, một giây sau có đặt tên.

 Tại sao chúng ta đặt tên? Tại sao chúng ta nói ‘tôi tức giận’? Tại sao có nhu cầu để diễn tả nó thành những từ ngữ? Hay nó chỉ là thói quen; một phản ứng ngay tức khắc?

A: Một hệ thống phòng vệ bắt đầu. Chính sự công nhận đang tạo ra một tình huống mà nói ‘Tôi không muốn tham gia vào xung đột.’

Krishanamurti: Đó là một phần của nó – sự đặt tên như một qui trình của tự-phòng vệ. Tại sao người ta đặt tên một phản ứng đặc biệt?

R: Nếu không, người ta sẽ không cảm thấy rằng người ta đang tồn tại.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta đặt tên nó, tại sao tôi đặt tên? Bạn đã gây tổn thương tôi và tôi đặt tên nó và hình thành một tự-phòng vệ nào đó.

A: Nếu tôi không đặt tên, sẽ không có sự tiếp tục.

Krishnamurti: Tại sao cái trí cho nó một tiếp tục?

R: Để cảm thấy rằng nó tồn tại.

Krishnamurti: Cái gì tồn tạicảm thấy, tức giận?

 Tại sao sự đặt tên trở thành quan trọng như vậy? Tôi đặt tên ngôi nhà của tôi, người vợ của tôi, người con của tôi. Sự đặt tên củng cố cái tôi. Nếu tôi không đặt tên, điều gì sẽ xảy ra? Sự tức giận sẽ chấm dứt.

 Tại sao phải có sự tiếp tục? Tại sao bộ não, cái trí, vận hành trong tiếp tục? Tại sao luôn luôn có sự diễn đạt bằng từ ngữ này?

A: Sự diễn đạt bằng từ ngữ xác định rằng có cặn bã nào đó.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta làm việc này? Nó có lẽ là một thói quen, một hình thức của trao sự tiếp tục cho một ý thức của tức giận và không-kết thúc về nó. Tất cả điều này chỉ rõ rằng cái trí cần đến sự bận tâm. Lúc này, tại sao cái trí đòi hỏi được bận tâm với tình dục, với Thượng đế, với tiền bạc? Tại sao?

A: Cái trí luôn luôn muốn được phấn khích. Nếu không có phấn khích cái trí sẽ đờ đẫn.

Krishnamurti: Như thế à? Chính sự bận tâm này không đang khiến cho cái trí đờ đẫn hay sao?

A: Tại sao cái trí lờ đờ khi nó không bị bận tâm?

Krishnamurti: Ngược lại, khoảnh khắc chúng ta bắt đầu thắc mắc tại sao có sự cần thiết này cho bất kỳ loại bận tâm nào, cái trí đã sinh động rồi.

A: Chỉ không còn bận tâm vẫn chưa đủ.

Krishnamurti: Dĩ nhiên, có nhiều người mỗi lúc một đờ đẫn và đờ đẫn hơn mỗi ngày mà không có bất kỳ bận tâm nào. Nhưng câu hỏi là tại sao cái trí của bạn lại muốn bị bận tâm? Liệu nó sẽ ngủ mê nếu nó không được bận tâm? Hay do bởi sự sợ hãi trống không mới khiến cho cái trí muốn được bận tâm?

 Tôi đang thâm nhập. Trong thâm nhập cái trí sẽ không ngủ mê. Chỉ cái trí không-bận tâm mới có thể thâm nhập.

 Vì vậy hầu hết chúng ta đều rơi vào những thói quenngăn cản đang nhìn.

 Tôi là một người Ấn giáo và trong suốt phần còn lại thuộc sống của tôi, tôi là một người Ấn giáo. Bạn là một người Hồi giáotrong suốt phần còn lại thuộc sống của bạn, bạn là một người Hồi giáo. Nhưng nếu tôi tự-chất vấn mình tại sao tôi là một người Hồi giáo, tôi mở cửa cho sự thâm nhập.

 Vì vậy sự đặt tên có lẽ là bộ phận của sợ hãi không biết phải làm gì này.

A: Sợ hãi phải rời xa cái bờ của cái đã được biết.

Krishnamurti: Đó là tất cả. Vì vậy, liệu cái trí, những tế bào não, liệu chúng có thể quan sát phản ứng được gọi là tức giận, không đặt tên nó và thế là chấm dứt nó? Nếu nó thực hiện điều đó, không có chuyển qua. Khi lần tới phản ứng nảy sinh, mà tôi đã đặt tên như sợ hãi, nó có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, một chất lượng khác hẳn.

A: Sự khó khăn của chúng tôichúng tôi gặp gỡ sự tức giận bằng ý tưởng.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta có những ý tưởng, những công thức? Chúng ta hãy bắt đầu lại – chúng ta biết sự tức giận, đặt tên, phản ứng bị quy định. Lúc này, chúng ta thấy đặt tên là một nhân tố trao sự tiếp tục cho tức giận. Tôi thấy sự thật rằng bằng cách đặt tên chúng ta cho sự tiếp tục. Vì vậy tôi không đặt tên. Khi tôi thấy sự nguy hiểm của con rắn và không chạm vào nó, tôi cũng không chạm điều này nữa. Tôi thấy rằng đặt tên về sự kiện trao sự tiếp tục cho cái gì đó mà tôi đã gọi là tức giận và thế là đặt tên tạo ra sự kéo dài. Vì vậy, sự đặt tên chấm dứt. Vì vậy, sự tức giận trải qua một thay đổi.

R: Có vẻ như thể rằng suốt khoảnh khắc khi chúng ta có thể quan sát sự tức giận, sự tức giận biến mất, và sự tức giận hiện diện trong khoảnh khắc khi chúng ta không thể quan sát.

Krishnamurti: Không. Bạn gọi tôi là một người ngu dốt. Tôi tức giận. Tôi không thích bạn gọi tôi là một người ngu dốt. Tôi thấy điều đó. Tôi thấy sự giả dối của đặt tên. Vì vậy phản ứng ở đâu? Điều này xảy ra ngay tức khắc. Thay vì đặt tên, điều này xảy ra và thế là, không có tổn thương gì cả. Câu hỏi của ‘A’ là tại sao chúng ta có những công thức? Chúng ta có những ý tưởng trước và sau đó sự nhận biết, hành động.

A: Thay vì một hành động của sự nhận biết, chúng ta lại có tình trạng bị quy định sâu thẳm của chúng ta. Cùng nhau tất cả những điều này, những văn hóa, những xã hội, những nhân loại học – là một cái khung sẵn sàng của sự tham khảo mà trao tặng cho chúng ta một ý thức an toàn.

Krishnamurti: Tại sao bạn làm điều này, thưa bạn?

R: Chúng tôi đã được nuôi dưỡng theo cách đó.

Krishnamurti: Điều đó không thỏa đáng. Bạn không biết tại sao chúng ta làm điều này? Thuộc kinh tế và xã hội chúng ta biết nó gây lợi lộc. Chủ nghĩa bộ lạc vẫn còn kiên cố. Nó quan trọng cực kỳ. Hãy vượt khỏi những công thức, những khuôn mẫu của Ấn giáo, Hồi giáo, vậy là bạn sẽ thấy điều gì xảy ra.

 Thuộc cá nhân, tôi không có công thức. Tại sao bạn có nó? Hãy tìm ra.

Những công thức, mà là những khuôn mẫu, trao tặng bạn sự hướng dẫn an toàn trong hành động. Chúng ta đặt ra sự giới hạnphụ thuộc vào nó chúng ta hành động và trong đó có sự an toàn. Vì vậy, sự sợ hãi của không-an toàn đúng là một trong những lý do tại sao chúng ta có những công thức, những ý tưởng. Cái trí muốn được vĩnh cửu. Những tế bào não vận hành hoàn hảo chỉ khi nào có sự an toàn hoàn toàn. Tôi không biết bạn có nhận thấy điều đó trong chính bạn? Những tế bào não chỉ vận hành khi có trật tự hoàn hảo. Và có trật tự hoàn hảo trong một công thức.

A: Anh có ý, thuộc tâm lý chúng tôi có một ham muốn cố hữu cho trật tự.

Krishnamurti: Thậm chí thuộc sinh học cơ thể, nếu tôi không có một loại trật tự nào đó, các cơ quan thân thể phản kháng. Trật tựtuyệt đối cần thiết, cốt lõi. Những công thứcphương cách an toàn nhất để có trật tự.

 Bạn có thấy rằng trước khi bạn đi ngủ, những tế bào não thiết lập trật tự? ‘Đáng ra tôi không nên làm điều này, đáng ra tôi không nên nói điều này.’ Và khi đi ngủ, nếu bạn không thiết lập trật tự, nó tự tạo ra trật tự riêng của nó. Đây là tất cả những sự kiện. Những tế bào não đòi hỏi trật tự mà là sự an toàn. Và những công thức là một trong những cách an toàn nhất để hướng dẫn sống của người ta mà không có vô trật tự. Theo sau một vị đạo sư có an toàn hơn. Những công thứccần thiết cho một cái trí mà mong muốn có trật tự, mà hy vọng tìm ra trật tự. Điều gì xảy ra? Bởi vì nó hy vọng tìm ra trật tự trong chủ nghĩa bộ lạc – bộ lạc Brahmin, bộ lạc Ấn giáo, bộ lạc quốc gia – và nếu bạn thoát khỏi nó, có sự nguy hiểm. Thế là, gọi chính người ta là một người Ấn giáo là an toàn. Thuộc về đấng Jehovah, là được đối xử như một người của nhóm đó. Chừng nào tôi còn phụ thuộc vào một giáo phái nào đó, đạo sư nào đó, tôi còn được an toàn. Lúc này, điều gì xảy ra khi bạn có một công thức? Bạn có những công thức của bạn và tôi có những công thức của tôi.

 Bạn có sự an toàn của bạn, và tôi người không có thời gian, chấp nhận nó. Điều gì xảy ra cho tôi khi tôi chấp nhận công thức của bạn? Bạn không biết điều gì xảy ra khi tôi là một người Ấn giáo hay sao? Có sự phân chia, vì vậy không-an toàn. Những tế bào não đòi hỏi trật tự, bởi vì chúng muốn có sự hòa hợp. Chúng sử dụng những công thức như một phương tiện dẫn đến trật tự. Những tế bào não đòi hỏi trật tự, đòi hỏi an toàn, ngược lại chúng không thể vận hành đúng cách. Tìm kiếm trật tự qua công thức tạo ra sự phân chia, vô trật tự. Ngay khi tôi thấy sự nguy hiểm thực sự, tiếp theo điều gì xảy ra? Vậy thì tôi không tìm kiếm sự an toàn trong công thức, vậy thì tôi thâm nhập liệu có sự an toàn trong bất kỳ phương hướng nào khác, liệu có một việc như an toàn.

A: Nhưng bộ não cần được an toàn

Krishnamurti: Bộ não phải có trật tự.

A: Trật tự không là an toàn.

Krishnamurti: Trật tựan toàn, trật tựhòa hợp, nhưng chính sự tìm kiếm trật tự lại kết thúc trong vô trật tự. Vì vậy, khi thấy điều này, tôi buông bỏ tất cả những công thức. Tôi không còn là một người Ấn giáo, một người Phật giáo, một người Hồi giáo nữa. Buông bỏ tất cả điều này. Buông bỏthông minh. Trong chính buông bỏ, cái trí đã trở nên rất thông minh. Thông minhtrật tự. Tôi không biết liệu bạn thấy điều này?

 Trong sự khai sáng có trật tự. Thế là, bộ não có thể vận hành trong điều kiện hoàn hảo. Thế là, sự liên hệ có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.

 Những tế bào não đang tìm kiếm trật tự trong vô trật tự. Chúng không thấy bản chất của vô trật tự. Chúng không hiểu rõtrật tự là gì? Chỉ khi nào những tế bào não phủ nhận chủ nghĩa bộ lạc, những công thức, trong chính sự phủ nhận đó là thông minh, mà là trật tự.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 197718)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 47810)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 27460)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 32333)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 22697)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 40598)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 30111)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 32689)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 35126)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 25671)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 18491)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 22472)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 33292)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 19634)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 22659)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 28854)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 19443)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 27309)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 28503)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 39038)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 29483)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 29059)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 32290)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 39051)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 39545)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 25493)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 33477)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 56585)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 39699)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 29501)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 30054)
Công Phu Khuya
(Xem: 39838)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 26956)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 25745)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 12949)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 16386)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 12043)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant