Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Phẩm Bát Nhã

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13797)
2. Phẩm Bát Nhã

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

2. Phẩm Bát Nhã 

Qua ngày kế, Vi Thứ Sử lại xin Đại Sư giảng nữa. 

Đại Sư lên tòa giảng mà bảo đại chúng rằng: “Các vị phải tịnh tâm mà niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (Maha Prajna Paramita)” 

Ngài lại dạy rằng: “Nầy chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được. Phải cầu bực Đại Thiện Tri Thức chỉ dẫn cho, mới thấy tánh. Phải biết rằng, dầu kẻ ngu hay người trí, cũng đồng có một tánh Phật giống nhau không khác, nhưng bởi tâm mê ngộ chẳng đồng, sở dỉ mới có kẻ ngu người trí. Vì đó, nên nay ta nói Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, khiến cho các vị mỗi người đều đặng trí huệ. Hãy chú ý mà nghe cho rõ, ta vì các người mà nói pháp. 

Chư Thiện Trí Thức, người thế gian suốt ngày miệng niệm Bát Nhã, mà chẳng biết Bát Nhã trong tánh mình, cũng như nói ăn mà chẳng no. (Nói ăn mà chẳng ăn thì thế nào mà no được.) Miệng chỉ nói tâm không (mà tâm chẳng làm theo), thì muôn kiếp cũng chẳng thấy tánh đặng, rốt cuộc không ích gì. 

Chư Thiện Tri Thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là tiếng Phạm, có nghĩa là Đại Trí Huệ Đáo Bỉ Ngạn. Ấy là do nơi lòng làm, chớ chẳng phải do nơi miệng niệm. Miệng niệm mà lòng chẳng làm theo, thì như huyễn mộng, như biến hóa, như sương điển. Miệng niệm và lòng làm theo, thì lòng và miệng hiệp nhau. Cái bổn tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác. 

Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha có nghĩa là lớn, tâm lượng rộng lớn, cũng như khoảng trống không, không có ranh bờ, cũng chẳng phải vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không trên-dưới, dài-ngắn, cũng không giận, không mừng, không phải, không quấy, không lành, không dữ, không có đầu đuôi. Các cõi Phật thảy đều trống không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống không, chẳng có pháp gì trong đó mà tìm đặng. Cái Tự Tánh Chơn Không cũng giống như thế. 

Chư Thiện Tri Thức, chớ nghe ta nói “không” mà liền chấp “không”. Nếu để cái tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là chấp cái “Vô Ký Không”. 

Chư Thiện Tri Thức, thế giới tuy là trống không, mà có thể bao hàm muôn vật. Cả thảy các sắc tướng: Mặt trời, mặt trăng, tinh, tú, núi, sông, đất bằng, nguồn suối, khe, rãnh, cỏ cây, rừng, bụi, kẻ dữ, người lành, việc dữ, việc lành, thiên đàng, địa ngục, cả thảy biển lớn, các núi Tu Di, nhứt thiết đều ở trong chỗ “không”. Cái tánh trống không của người thế gian cũng giống như thế. 

Chư Thiện Tri Thức, cái tánh mình có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tánh các vị. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các việc lành của người, mà chẳng chấp, chẳng bỏ, cũng không nhiễm vương, không dính níu, lòng như trống không, ấy gọi là lớn, cho nên kêu là Ma Ha

Chư Thiện Tri Thức, kẻ mê miệng nói, người trí lòng làm (tu hạnh Bát Nhã-nd). Lại có người mê để lòng trống không, ngồi yên lặng, chẳng nghĩ đến mọi việc, mà tự xưng là “lớn”. Với bọn người ấy, không thể nói gì được, vì họ bị sa vào chỗ tà kiến

Chư Thiện Trí Thức, cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng (tới chỗ cùng lý tận tánh-nd). Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, thì biết hết cả thảy sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thã, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát Nhã (Trí Huệ-nd) vậy. 

Chư Thiện Tri Thức, cả thảy trí Bát Nhã đều do trong tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do bên ngoài mà vào. Chớ lầm dùng cái ý thức. Ấy gọi là Chơn Tánh Tự Dụng. 

Mỗi sự lý phải hiểu tới tận chỗ chơn, cả thảy sự lý phải hiểu tới tận chỗ chơn (đạt đến Thật Thể Chơn Lý-nd). Tâm phải lo lường việc lớn (tu hạnh Bát Nhã, đạt tới chỗ tri kiến Phật-nd), chẳng nên đi theo con đường nhỏ. Miệng đừng trọn ngày nói “không” mà trong lòng chẳng tu hạnh ấy (Hạnh Chơn Không tức là Bát Nhã-nd). Cũng như người dân thường tự xưng mình là quốc vương, rốt cuộc rồi chẳng làm gì được. Những hạng người ấy chẳng phải đệ tử của ta. 

Chư Thiện Tri Thức, sao gọi là bát Nhã? Bát Nhã, nhà Đường gọi là Trí Huệ. Cả thảy các chỗ các nơi, trong cả thảy thời gian, niệm niệm chẳng ngu muội, thường tu hạnh Trí Huệ, tức là hạnh Bát Nhã. Một niệm ngu muội tức là Bát Nhã tuyệt; Một niệm Trí Huệ, tức là Bát Nhã sanh. Người thế gian ngu mê chẳng thấy Bát Nhã. Miệng nói Bát Nhã mà trong lòng thường ngu muội. Thường nói ta tu hạnh Bát Nhã, niệm niệm nói “không”, mà chẳng biết Tâm Chơn Không. Bát Nhã không hình tướng, (biết được như thế thì) ấy gọi là Trí Huệ Tâm. Thiệt hiểu rõ như thế, thì mới thể nhận trí Bát Nhã, khỏi lạc lầm. 

Sao gọi là Ba La Mật Đa? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc, nhà Đường gọi là Đáo Bỉ Ngạn (qua tới bờ bên kia), nghĩa là khỏi sự sanh diệt. Tâm dính cảnh thì sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, tức là thử ngạn (bờ bên này). Còn tâm lìa cảnh, thì không có sự sanh diệt, như nước thường thông lưu (trôi chảy), tức là bỉ ngạn (bờ bên kia). Cho nên gọi là Ba La Mật Đa

Chư Thiện tri thức, người mê muội, miệng niệm (Bát Nhã), đương lúc niệm tâm còn vọng động, có tưởng điều quấy. Nếu niệm niệm tâm thường hành Bát Nhã, thì mới gọi là chơn tánh. Biết rõ pháp ấy, thì hiểu pháp Bát Nhã. Tu hạnh ấy, tức là tu hạnh Bát Nhã. Không tu hạnh ấy tức là phàm tục. Một niệm tu hành (tu hạnh Bát Nhã), thì cả thân mình toàn là Phật. 

Chư Thiện tri thức, phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ Đề. Niệm trước mê muội tức là phàm phu; Niệm sau giác ngộ, tức là Phật. Niệm trước dính cảnh tức là phiền não, niệm sau phiền não tức là Bồ Đề

Chư Thiện tri thức, pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa rất là tôn quý, rất cao thượng, cao hơn hết các pháp, không trụ vào chỗ nào, không qua cũng không lại; Cả thảy ba đời mười phương Chư Phật đều do trong pháp ấy mà hiện ra

Các ngươi phải dùng Đại Trí Huệ mà phá tan năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) và các sự phiền não trần laoTu hành như thế, chắc là thành Phật đạo. Phải đổi ba độc (tham, sân, si) làm Giới, Định, Huệ. 

Chư Thiện tri thức, pháp môn của ta đây do một pháp Bát Nhã mà sanh ra tám muôn bốn ngàn trí huệ. Bởi cớ sao ? Vì người thế gian có tám muôn bốn ngàn trần lao (phiền não). Nếu khôngtrần lao, thì trí huệ thường hiện ra và chẳng lìa tánh mình. Hiểu rõ pháp này, thì không có vọng niệm. Lòng không nhớ, không dính cảnh, không sanh điều dối giả, dùng tánh Chơn Như của mình, lấy trí huệ xem soi, đối với cả thảy các pháp không lấy, không bỏ, tức là thấy tánh, là thành Phật đạo vậy. 

Chư Thiện tri thức, muốn vào pháp giới cao thâm cùng Trí Bát Nhã Tam Muội thì phải tu hạnh Bát Nhã. Phải trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã, tức khắc thấy tánh. Phải biết các công đức của kinh ấy thiệt là vô lượng vô biên. Những lời khen ngợi trong kinh rất rõ ràng, không thể nói ra hết được. Cái pháp môn ấy là pháp Tối Thượng Thừa, vì người đại trí, vì người thượng căn mà nói. Các người tiểu căn tiểu trí nghe pháp môn ấy, lòng nghi ngờ chẳng tin là bởi cớ sao? Ví như các vị Thiên ThầnLong Thần làm mưa xuống cõi Diêm Phù Đề (tức là cõi Nam Thiệm Bội Châu) thì cả thảy thành, ấy, làng, xóm đều trôi nổi như lá táo. Còn nếu mưa xuống biển cả, thì thấy chẳng thêm chẳng bớt. Cũng như người đại thừa, người tối thượng thừa nghe nói kinh Kim Cang, thì tâm địa mở mang tỏ hiểu. Cho nên biết rằng Bổn tâm tự nó có trí Bát Nhã. Bởi Bổn Tánh của mình thường lấy trí huệ mà xem soi, cho nên chẳng cần dùng văn tự. Ví như nước mưa chẳng phải do trời làm mà có, nguyên bởi năng lực của nước dấy động, khiến cho cả thảy các loài hữu tình, các loài vô tình, tất cả đều được gội nhuần. Cả thảy sông ngòi đều chảy vào bể cả, hiệp làm một thể. Cái Trí Bát Nhã của Bổn Tánh của chúng sanh cũng giống như thế. 

Chư Thiện tri thức, người tiểu căn nghe pháp Đốn Giáo này, ắt là điên đảo. Cũng như loài cỏ cây, gốc rễ nhỏ yếu, nếu bị một đám mưa to, chắc đều ngã rạp, không thể lớn lên được. Nguyên người tiểu căn có trí Bát Nhã cũng như người đại trí, không có chỗ gì khác. Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp mà lòng chẳng tự mở mang tỏ sáng? Ấy bởi cái nghiệp chướng của sự tà kiến còn nặng, cái gốc rễ của sự phiền não châm sâu. Cũng như một đám mây lớn che án mặt trời, nếu chẳng gặp được luồng gió thổi, thì yến sáng mặt trời không hiện ra được. 

Cái Trí Bát Nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn Tánh của mình, tức là người tiểu căn. Hiểu rõ pháp Đốn Giáo tu hànhkhông chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là người thấy tánh. 

Chư Thiện tri thức, tâm mình trong ngoài chẳng trụ, lui tới tự do, bỏ đặng lòng chấp trước, suốt thông không trở ngại, tu trọn các hạnh ấy, thì đối với kinh Bát Nhã vốn không chỗ nào sai khác. 

Chư Thiện tri thức, cả thảy các kinh Tu Đà La và các thứ văn tự Đại Thừa, Tiểu Thừa, mười hai bộ kinh, đều bởi cơ duyên của nhân loại mà bày ra, cùng do tánh trí huệ mới kiến lập được. Nếu không có người thế gian, thì cả thảy muôn pháp vốn tự nhiên không có. Cho nên biết rằng, muôn pháp vốn bởi do nhân loại mà khởi ra, cả thảy các kinh sách đều bởi nhơn loại mà nói ra, nên mới có. Trong loài người có kẻ ngu người trí: Ngu làm tiểu nhơn, trí là đại nhơn. Người ngu học hỏi với người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu bỗng nhiên tỏ hiểu, tâm địa mở mang, tức nhiên giống như người trí không khác. 

Chư Thiện tri thức, tâm không giác ngộ, Phật là chúng sanh. Một niệm giác ngộ, chúng sanh tức là Phật. Cho nên biết rằng muôn pháp đều ở nơi Bổn Tâm của mình. Vậy sao chẳng do trong Bổn Tâm của mình mà thấy liền cái Chơn Như Bổn Tánh? Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: “Cái Bổn Nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch. Nếu biết tâm mình và thấy tánh mình, thì thành Phật đạo.” Kinh Tịnh Danh có nói: “Tức thời tâm trí thông suốt, thì phục hồi đặng Bổn Tâm.” 

Chư Thiện tri thức, lúc ta ở với Hòa Thượng Hoằng Nhẫn, mỗi khi nghe nói pháp rồi, liền tỏ sáng, liền thấy Chơn Như Bổn Tánh. Bởi vậy, ta mới đem giáo pháp này mà lưu hành, khiến cho các người học đạo liền tỏ sáng tâm Bồ Đề, mỗi người tự xem Bổn Tâm của mình và tự thấy Bổn Tánh của mình. Nếu tự mình chẳng tỏ sáng, thì phải tìm bực Đại Thiện Tri Thức giảng giải pháp Tối Thượng Thừa và chỉ ngay con đường Chánh Giác cho mình. Bực Thiện tri thức ấy có cái nhơn duyên lớn là lo về việc giáo hóatiếp dẫn cho người đặng thấy tánh. Cả thảy các pháp lành đều do các Thiện Tri Thức mà được phát khởi. Cả thảy Chư Phật trong ba đời, mười hai bộ kinh, ở trong tánh con người tự nhiên có đủ, nhưng tự mình không thể hiểu rõ được, nên phải cầu bực Thiện Tri Thức chỉ bày cho mới thấy. Nếu tự mình hiểu rõ, thì chẳng cần cầu nơi ngoài. Bằng một mực cố chấp rằng phải cầu bực Thiện tri thức mới mong được giải thoát, thì không có lý như vậy. Bởi cớ sao? Bởi trong tâm mình có sẵn cái cơ Trí Thức Tự Ngộ. Nếu tâm mình khởi tà mê, vọng niệm, điên đảo, thì dầu ngoài có Thiện Tri Thức truyền dạy, cũng không thể cứu được. Bằng tâm mình khởi chơn chánh, trí Bát Nhã thường xem soi, thì trong một sát na, các vọng niệm đều dứt hết. Nếu biết Bổn Tánh của mình một niệm giác ngộ thì liền đến cõi Phật

Chư Thiện tri thức, cái trí huệ thường xem soi, trong ngoài đều sáng thấu, thì biết rõ Bổn Tâm của mình. Biết rõ Bổn Tâm tức là Giải Thoát, Giải Thoát tức là Bát Nhã Tam MuộiBát Nhã Tam Muội tức là Vô Niệm. Sao gọi là Vô Niệm? Biết thấy cả thảy các pháp mà lòng không nhiễm vương, không dính níu, ấy là Vô Niệm. Cái tâm khi ứng dụng liền biến khắp cả thảy khắp các nơi, mà cũng chẳng dính vướng vào các nơi ấy. Giữ Bổn Tâm mình trong sạch, khiến sáu thức ra ngoài sáu cửa, đối với sáu trần mà lòng không nhiễm vương, dính níu, không lộn xộn, lui tới tự do, thông dụng không ngăn trở, tức là Bát Nhã Tam Muội, Tự Tại Giải Thoát, gọi là Hạnh Vô Niệm

Bằng đối với mọi vật, lòng không nghĩ đến, khiến cho niệm tưởng dứt đi, đây là bị pháp ràng buộc. Ấy gọi là biên kiến

Chư Thiện tri thức, hiểu rõ pháp Vô Niệm thì suốt thông muôn pháp. Hiểu rõ pháp Vô Niệm thì thấy cảnh giới của Chư Phật. Hiểu rõ pháp Vô Niệm thì đạt đến địa vị của Phật. 

 Chư Thiện tri thức, đời sau người nào gặp đặng pháp môn của ta, đem pháp môn Đốn Giáo này truyền cho các người đồng ý kiến, đồng tâm hành đạo, đặng phát nguyện thọ trì, thì cũng như thờ Phật. Làm như thế tới trọn đời mà không thối chí, thì chắc vào ngôi Thánh. Nhưng cách truyền thọ, phải do theo ý chỉ của các vị Tổ Sư từ đời trước tới nay, mà mặc truyền phú chúc cho rõ ràng, chẳng đặng ém dấu cái chánh pháp của các ngài. Còn các người không đồng ý kiến, không đồng tâm hành đạo, hoặc ở trong pháp môn khác, thì chẳng nên truyền thọ, vì có hại cho các người ấy, mà rốt cuộc không có ích gì. Bởi sợ e có người ngu muội chẳng hiểu, rồi đem lòng chê bai pháp môn này mà phải đoạn tuyệt hột giống Phật Tánh của họ trong muôn đời ngàn kiếp. 

Chư Thiện tri thức, ta có một bài tụng Vô Tướng, các ngươi phải tụng đọc. Người tại gia hay xuất gia cũng phải y theo bài tụng này mà tu hành. Nếu tự mình chẳng tu, mà chỉ nhớ lời ta nói, thì cũng không ích gì. Hãy nghe ta tụng: 

 

Tụng rằng: 

Nói Thông, Tâm cũng Thông 

Như mặt nhật trên không 

Duy truyền Pháp Thấy Tánh 

Xuống thế, phá tà tông. 

 

Pháp vốn không Đốn, Tiệm 

Mê Ngộ có chậm mau 

Chỉ môn Thấy Tánh ấy 

Kẻ muội chẳng kham vào 

 

Nói tuy muôn việc đủ 

Lý hợp một, Không Hai 

Trong lòng sanh khổ não 

Thường tu Huệ phát khai 

 

Tà sanh, phiền não dấy 

Chánh đến, não phiền tan 

Chánh tà, đều chẳng dụng 

Thanh tịnh, chứng Niết Bàn 

 

Bồ Đềtự tánh

Tâm động, tức vọng mông 

Tịnh tâm trong chỗ vọng, 

Tâm chánh, chướng tiêu vong 

 

Người tu theo chánh đạo 

Muôn vật chớ tổn thương 

Lỗi mình, hay xét lấy 

Mới hiệp đạo chơn thường 

 

Muôn loài tự có đạo 

Chớ giết hại loài nào 

Lìa đạo mà tìm đạo 

Chung thân đạo khó vào 

 

Bôn ba qua một kiếp, 

Rốt cuộc não phiền còn 

Muốn thấy nền chơn đạo 

Làm chánh, ấy đạo chơn 

 

Đạo tâm, nếu chẳng có 

Mờ ám phủ đường đi (1) 

Người thật lòng hành đạo 

Lỗi đời, cứ bỏ qua. 

 

Nếu thấy người lầm lỗi 

Đừng để thành lỗi mình 

Người lỗi, ta không lỗi 

Ta lỗi, nếu chê bai (2) 

 

Hãy chừa thói chê lỗi 

Phiền não phá cho tan 

Ghét yêu đừng để dạ 

Duỗi cẵng, nghỉ thanh nhàn 

 

Muốn toan lo độ thế 

Phương tiện, phải sẵn sàng 

Chớ để người nghi hoặc 

Tánh họ mới Minh Quang 

 

Phật Pháptrần thế 

Không xa thế giới mà 

Bỏ đời, tìm đạo chánh 

Sừng thỏ, kiếm sao ra ? 

 

Chánh kiếnxuất thế 

Tà kiến, ấy thế gian 

Chánh tà đều phá hết 

Phật Tánh, hiện rõ ràng 

 

Tụng này là Đốn Giáo 

Cũng kêu Đại Pháp Thuyền 

Mê, nghe kinh, lũy kiếp 

Ngộ, thấy Phật tâm liền. 

 

Đại sư lại nói: “Nay tại chùa Đại Phạm, ta nói pháp Đốn Giáo này, phổ nguyện chúnh sanh trong pháp giới, vừa nghe pháp rồi, đều liền thấy tánh, thành Phật.” 

Lúc ấy, quan Vi Thứ Sử và các viên quan, chức sắc, cùng các người đạo, tục, nghe Đại Sư nói pháp, cả thảy đều giác ngộ, đồng làm lễ một lượt mà khen rằng: “Hay thay! Nào dè ở xứ Lãnh Nam có Phật ra đời !” 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12533)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10862)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10531)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11205)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12014)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13169)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13661)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11349)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12944)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13071)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11871)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18990)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12567)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13158)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15792)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11833)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12785)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12643)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13008)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12963)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11767)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11744)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12352)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12397)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19839)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16899)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12685)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16135)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12901)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12257)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11932)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11938)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13166)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13240)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12508)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11836)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19875)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11172)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10411)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11108)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10052)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11762)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant