Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Guru Yoga

24 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13781)
7. Guru Yoga

MANDALA - SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
THEO QUAN KIẾN KIM CƯƠNG THỪA
Giáo Pháp Từ Chuyến Viếng Thăm Việt Nam 2010
của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII

GURU YOGA
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII - Giảng phápquán đỉnh cộng đồng Thượng sư Liên Hoa Sinh – Guru Padmasambava,
cầu nguyện quốc thái dân an tại chùa Quan Âm Tu Viện, Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh ngày 26.3.2010

 Tôi xin chân thành gửi lời chào đến tất cả chư Đại đức Tăng Ni và quý Phật tử. Tất cả chúng ta đều đón nhận được sự gia trì từ Tam Bảo. Chương trình khóa lễ của buổi sáng nay trước tiên là phần Quy y, kế đến là Quán đỉnh Thượng sư Liên Hoa Sinh, tôi cũng sẽ giảng sơ lược về pháp tu Ngondro và sẽ giảng kỹ về phần thực hành Guru Yoga (Thượng Sư tương ưng pháp). Đây là pháp tu quan trọng nhất trong Kim Cương Thừa. Ni sư Trụ trì cùng tất cả chư Ni và quý Phật tử tại trụ xứ đã thỉnh cầu tôi trao truyền Quán đỉnhGiáo Pháp này, vì sự lợi ích của hết thảy chúng sinh, đặc biệt nhân dân đất nước Việt Nam, cùng với sự lợi ích của chư Ni và quý Phật tử tại trụ xứ.

 Trước tiên phần Quy y: Chắc tất cả mọi người đều biết rõ nghĩa chung của Quy y Tam bảo. Riêng trong Kim Cương Thừa khi nói đến Quy y Phật, không phải chỉ là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà muốn chỉ đức Phật bên trong mỗi chúng ta, còn gọi là bản chất Phật tính, Như Lai Tạng, bản chất tâm, hay còn gọi là đức Phật tuyệt đối. Dù đức Phật Thích Ca là đối tượng chính yếu của Quy y, nhưng mục đích cuối cùng vẫn phải trở về nương tựa vào đức Phật nguyên thủy trong tâm chúng ta. Đó là đức Phậtchúng ta cần quay về nương tựa.

 Quy y Pháptrước tiên đề cập đến Pháp bảo Tôn quý, mà đức Phật Thích Ca đã truyền dạy. Giáo Pháp đó chính là sự phản ảnh các quy luật của cuộc sống. Như vậy, thực tế đời sống, những biến đổi thăng trầm của thân tâm cảnh, sẽ là những Pháp bảo thiết thực giúp chúng ta giác ngộ. Tuy nhiên Giáo Pháp căn bản chúng ta cần thực tập chính là Giới nguyện. Giới nguyện là phần quan trọng nhất, cần phải thực hành khi Quy y Pháp.

 Quy y Tăng trong Kim Cương Thừa thì Tăng già bao gồm tất cả những Hành giả thực hành Phật Pháp, một cách chân thành nghiêm túc. Như vậy khi Quy y, chúng ta hiểu rằng: mình đang nhận được sự gia trì từ Phật, Pháp, Tăng, hay phát nguyện theo con đường cao quý của đức Thế Tôn.

 Xin hãy trì tụng theo tôi: “Namo Gurubhye. Namô Buddhaya. Namo Dharmaya. Namo Sanghaya”. Trong Kim Cương Thừa nhấn mạnh Quy y Kim Cương Thượng Sư là quan trọng nhất, để biết đến Quy y Tam Bảo chúng ta đều nhờ vào sự hướng đạo của Căn Bản Thượng Sư. Ngài chính là đại diện của Tăng già, là một bậc giác ngộ trong hình tướng Tăng già. Bởi vậy Căn Bản Thượng Sư là đối tượng Quy y quan trọng nhất đối với mỗi chúng ta, đây là điểm đặc biệt của Kim Cương Thừa.

Trong truyền thống của Nguyên Thủy hay Đại Thừa, không thấy đề cập đến tầm quan trọng đặc biệt của Căn Bản Thượng Sư. Dĩ nhiên Căn Bản Thượng Sư đều quan trọng trong tất cả các Thừa, nhưng trong Kim Cương Thừa thì đặc biệt quan trọng hơn, vì Căn bản Thượng sư tượng trưng cho cả ba ngôi Tam Bảo. Thân Ngài là Tăng Bảo, Lời Ngài là Pháp Bảo, Tâm Ngài là Phật Bảo. Thượng sư còn là hiện thân của tất cả sự thành tựu, tất cả tri thức và tất cả sự giác ngộ. Đó là nghĩa của Căn bản Thượng sư.

 Thượng sư theo tiếng Phạn gọi là “Guru”. Danh từ Guru là hợp âm của hai từ “Guna” hay “Rupa”. “Rupa” là sự hợp nhất, còn “Guna” là sự thành tựu. Như vậy “Guru” có nghĩa là tất cả sự thành tựu cùng hợp nhất trong Căn Bản Thượng Sư, là bậc Thầy linh thiêng Tôn quý, như vậy nghĩa thật của “Guru” là bậc hiện thân của tất cả sự thành tựu giác ngộ. Một bậc Thầy Căn Bản Thượng Sư, cần phải có sự thành tựu trong các pháp tu tập của Nguyên Thủy Phật giáo, thành tựu trong pháp thực hành của Đại Thừa Phật giáothành tựu trong pháp thực hành của Kim Cương Thừa đó là nghĩa từ “Guna”. Còn nghĩa của từ “Rupa” là sự hợp nhất trọn vẹn, không phải chỉ thuần thục thành tựu pháp tu của Nguyên Thủy Phật giáo hay Đại thừa, mà cần phải thành tựu cả ba Thừa, cho nên “Rupa” có nghĩa là sự hiện thân của Nguyên Thủy, của Đại ThừaKim Cương Thừa. Chữ “Rupa” nghĩa thông thường là sự kết hợp nhiều thứ với nhau. Ví dụ như: có rất nhiều táo ở cùng một chỗ, nhiều loại rau cùng một chỗ là từ “Rupa”. Như vậy “Rupa” có nghĩa là sự thành tựu cùng lúc cả ba Thừa Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cương Thừa. Sự thành tựu đó là phẩm hạnh của Căn Bản Thượng Sư. Nếu không có sự thành tựu kết hợp cả ba thừa, chúng ta không thể gọi là Căn Bản Thượng Sư, bởi vì các vị đó không đủ phẩm hạnh của một bậc Căn Bản Thượng Sư. Có thể các vị đó rất thành tựu trong pháp tu của Nguyên Thủy, nhưng cũng không thể gọi là một “Guru”. Cho dù rất thành tựu trong pháp tu của Đại Thừa hay Mật Thừa cũng không thể gọi được là một “Guru”. Như vậy để có thể trở thành một bậc Căn Bản Thượng Sư “Guru”, các Ngài cần có đủ sự kết hợp thành tựu pháp tu của cả ba Thừa. Chúng ta sẽ trì tụng Quy y ba lần: “Namo Gurubye. Namo Buddhaya. Namo Dharmaya. Namo Sanghaya.” (3 lần)

“SANGGYÉ CHÖEDANG TSHOGKYI CHOGNAM LA/

JANGCHUB BARDU DAGNI KYABSU CHI/”

Đó là lời trì tụng theo Tạng âm, nghĩa là chúng ta đã phát nguyện Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y TăngQuy y Kim Cương Thượng Sư, sự kết hợp của cả ba ngôi Tam Bảo. Một điểm cần nên nhớ, bạn cần phát tâm Quy y không phải cho riêng mình, mà vì lợi ích giải thoát giác ngộ cho tất cả chúng sinh. Bây giờ chúng ta sẽ thọ Bồ Tát giới. Bồ đề tâmpháp thực hành của Đại Thừa, chúng ta cần phát triển Bồ Đề tâm bằng cách thọ giới nguyện Bồ tát. Xin trì tụng theo tôi:

 “DAGGI JINSOG GYIPEI SÖENAM KYI/

 DrOLA PHENCHIR SANGGYÉ DrUBPAR SHOG/” (3 lần)

 Như thế các bạn đã thọ xong giới nguyện Bồ tát bằng cách tụng những lời trên. Giới Bồ tát là pháp tu chủ yếu để trưởng dưỡng Bồ Đề tâm, thông qua sự thực hành Từ biTrí tuệ.

 Bây giờ chúng ta nói về pháp thực hành Kim Cương Thừa. Sự thực hành của Kim Cương Thừa luôn dựa trên cơ sở nền tảng của Nguyên ThủyĐại Thừa Phật giáo, đặc biệt sự thực hành của Đại Thừapháp thực hành chính yếu của Kim Cương Thừa. Sẽ không có sự thực hành của Kim Cương Thừa, nếu không có sự thực hành cốt tủy của Đại Thừa, mặc dù về hình thức giữa Đại ThừaKim Cương Thừa có một chút sự khác biệt như về y phục, cách trì niệm, cách tán tụng… nhưng bản chất thì không khác. Những sự khác biệt thì đương nhiên cần được chấp nhận. Ví dụ trong một gia đình có ba người thì sẽ có ba cách đi, cách nghĩ, cách nói khác nhau nhưng họ vẫn cùng là con người. Đôi khi có thể là anh chị em ruột thịt cùng cha mẹ nhưng quan điểm, cách sống và hành động của họ vẫn khác nhau, đó không phải là vấn đề quan trọng, vì bản chất của họ không khác. Tương tự như vậy, Giáo Pháp và pháp tu của Đại ThừaKim Cương Thừa, có đôi chút khác biệt nhưng về mặt cốt tủy thì như nhau, có thể kết hợp với nhau.

 Khi nói về pháp tu của Kim Cương Thừa đặc biệt là pháp Guru Yoga (Thượng sư tương ưng pháp), chúng ta có thể dùng một trong bốn đức Phật làm đối tượng tu tập như: đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Thượng sư Liên Hoa Sinh hay đức Kim Cương Trì. Chúng ta có thể thực hành bất kỳ hình tướng đức Phật nào trong pháp tu này, không có vấn đề gì khác nhau cả. Nhưng hôm nay tôi sẽ hướng dẫn quý vị thực hành Pháp tu về Guru Padmasambhava (Thượng sư Liên Hoa Sinh). Pháp tu Thượng sư Liên Hoa Sinh là sự hợp nhất của cả Nguyên Thủy, Đại ThừaKim Cương Thừa, bởi thế mà Ngài được tôn xưng là Guru Padmasambhava. Nếu Ngài không thực chứng pháp tu của cả Tam Thừa, thì sẽ không bao giờ được tôn xưng là Guru.

 Guru Padmasambhava còn tôn xưng là Guru Rinpoche. Ngài là sự hợp nhất của tất thảy mười phương Chư Phật, chư Bồ tát. Ví dụ trong kinh điển có nói rất rõ ràng: Guru Rinpoche và đức Phật Thích Ca, cùng với Bồ Tát Quan Thế Âm đồng một thể. Bề ngoài Ngài hiện tướngđức Phật Thích Ca Mâu Ni, về mặt thế gian Ngài hiện tướng Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Từ biTrí tuệ, và đặc biệt trong Kim Cương Thừa Ngài hiện thân là Guru Padmasambhava, một bậc Kim Cương Thượng Sư. Thượng sư Liên Hoa Sinh có rất nhiều hoá thân, như ba hoá thân, tám hoá thân hoặc một trăm hoá thân…, nhưng nói chung Ngài là hiện thân của tất cả Chư Phật, chư Bồ tát, Daka, Dakini. Bởi vậy chúng ta hãy nương theo Ngài - một bậc Thượng sư giác ngộ tối thượng.

 Chính Đức Phật Thích Ca đã từng huyền ký rõ ràng rằng: Ngài sẽ hoá thân trở lại trong hình tướng của Thượng sư Liên Hoa Sinh, sau khi Ngài nhập Niết Bàn khoảng 1000 năm. Điều này có nghĩa là Đức Phật Thích CaThượng sư Liên Hoa Sinh không khác nhau. Bởi vậy như tôi đã nói, Đức Phật Thích Ca hiện thân trong hình tướng là một bậc Thầy bên ngoài, hay một Đức Phật bên ngoài đó là nghĩa bí mật. Và theo thế gian thì Đức Phật Thích Ca là sự hợp nhất của Guru Padmasambhava (Thượng sư Liên Hoa Sinh). Vì thế thông qua sự thực hành Pháp Guru Padmasambhava tức là chúng ta thực hành Pháp của tất cả Chư Phật, chư Bồ tát trong cùng một lúc.

 Thượng sư Liên Hoa Sinh hoá thân trong nhiều hình tướng, có thể có ba hay bốn hình tướng… Mỗi hình tướng đều có các thế ấn, màu sắc đặc trưng, tuy nhiên hình tướng phổ biến mà nhiều người biết tới và tu tập, là hình tướng trong tấm hình mà tôi đang cầm trên tay đây. Có thể tấm hình này chưa được rõ ràng lắm nhưng mọi người vẫn có thể nhìn thấy được. Hình tướng bên ngoài của Thượng sư rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn cần phải hiểu là Thượng sư biểu trưng cho những phẩm hạnh gì. Tất nhiên chúng ta cũng cần phải biết được hình tướng bên ngoài của Ngài, vì việc quán tưởng vô cùng quan trọng, nhưng hình tướng bên ngoài chưa phải là quan trọng nhất. Quan trọng nhất là phải hiểu được Thượng sư tượng trưng cho những phẩm hạnh gì.

 Đây là bức hình về hình tướng Thượng sư Liên Hoa Sinh mà nhiều người biết và đang thực hành Quán tưởng về Ngài.

 Tới giờ các bạn đã nhận được LungWang. Theo tiếng Tạng, Wang có nghĩa là Quán đỉnh, Lung là Khẩu truyền. Bạn cũng cần phải hiểu được ý nghĩa của khẩu truyền mà tôi vừa truyền trao. Lung cũng giống như việc trì tụng, tâm truyền tâm, vì vậy bạn phải định tâm lắng nghe những gì mình đang trì tụng. Tôi sẽ trì tụng để khẩu truyền tới các bạn, bạn sẽ nhận được Lung, nhưng nhận khẩu truyền không có nghĩa là đã nhận được Quán đỉnh. Quán đỉnh sẽ được truyền trao sau khẩu truyền.

 Sau khi đã thụ nhận Khẩu truyền, bạn có thể thực hành nghi quỹ này. Nếu không bạn chưa được phép thực hành, mà chỉ có thể được trì tụng. Dù thực hành cũng không thể ân hưởng trọn vẹn sự gia trì, nếu không nhận Quán đỉnh. Nếu bạn mong nguyện được ân hưởng trọn vẹn sự gia trì, thì bạn cần phải nhận Quán đỉnh. Nếu đủ thời gian, tôi sẽ truyền Quán đỉnh ngay vào sáng nay, còn không sẽ truyền vào buổi chiều.

Đây là nghi quỹ Guru Padmasambhava được truyền trao từ chính Thượng sư Liên Hoa Sinh, tuy nhiên nghi quỹ này đã được cất giấu trong một thời gian dài, gần đây mới được một Thượng sư của Truyền thừa Drukpa khám phá. Ngài đã khám phá ra nghi quỹ thông qua sự chứng ngộthành công trong việc thụ nhận trực tiếp toàn bộ Giáo Pháp từ Thượng sư Liên Hoa Sinh do chính Ngài đã tận tâm thực hành, chứng đạt giác ngộ qua nghi quỹ này. Ngài đã truyền trao xuống cho đệ tử, và sau đó tôi đã được thụ nhận trực tiếp nghi quỹ này từ hoá thân của Ngài. Bậc hóa thân này là một bậc thầy của tôi và hiện nay Ngài vẫn đang tại thế. Chính Ngài đã truyền trao phương pháp này cho tôi và thỉnh cầu tôi giới thiệu nghi quỹ này rộng khắp vì lợi ích của vô số chúng hữu tình.

Đây là lần đầu tiên tôi truyền trao nghi quỹ Guru Padmasambhava tại Việt Nam. Tôi đã truyền trao nghi quỹ này tại nhiều nơi tôi viếng thăm, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên tại Việt Nam. Hiện nay Thượng sư của tôi vẫn còn tại thế, Ngài tiên đoán rằng Pháp tu này sẽ lợi ích cho vô số chúng hữu tình. Bởi vậy, tôi tâm nguyện rằng những Hành giả tại đây, chắc chắn sẽ thực hành thuần thục nghi quỹ này trong thời gian chưa đầy một năm, thậm chí có thể ghi nhớ, thực hành Pháp tu với tâm chí thành sâu sắc.

Khi thực hành sâu nghi quỹ đặc biệt này, bạn quán tưởng Thượng sư Liên Hoa Sinh, tay kết khế ấn ở ngang tim chứ không phải đặt dưới đầu gối. Nhưng tất nhiên như tôi nói, vì mọi người nhìn thấy thế ấn tay Ngài giống như trong tấm hình trên tay tôi, nhưng trong pháp tu thì tất cả mọi thứ đều hoàn hảo như nhau. Tay phải của Ngài cầm chày Kim cương ở ngang tim.

Trong bức hình, thế ấn mà chúng ta nhìn thấy, với một tay Ngài cầm chày Kim cương phía trên đầu gối, là thế ấn hàng phục, ấn tiêu trừ điều phục chướng ngại. Nhưng với việc trì giữ chày Kim cương ngang ngực, tại tim, thì thế ấn đó nghĩa là tâm giác ngộ, tâm Bồ đề. Thế ấn này biểu trưng cho tâm Bồ đề hay Bodhicitta, trong đó “Citta” nghĩa là tâm, “Bodhi” nghĩa là an định tâm hay tâm giác ngộ, được tượng trưng bởi chày Kim cương mà Ngài đang trì giữ. Tư thế trì giữ chày Kim cương tại tim, biểu trưng cho sự định tâm trong khi thực hành Bồ Đề tâm.

Cũng vậy, khi thực hành sâu nghi quỹ Guru Padmasambhava, bạn quán tưởng Bồ Tát Quan Thế Âm an trụ nơi tim của Thượng sư Liên Hoa sinh, vì mục đích chính của Pháp thực hành Guru Padmasambhva cũng là khai triển tâm Bồ đề. Sau khi thực hành sâu hơn nữa, bạn sẽ quán tưởng đức Phật A Di Đà an trụ nơi tim của Bồ tát Quan Thế Âm, không phải tại tim của Thượng sư Liên Hoa Sinh, mà tại tim của Bồ tát Quan Thế Âm. Điều này biểu trưng cho mục đích chính của nghi quỹ Liên Hoa Sinh, hay sự chứng ngộ pháp tu này chính là chứng đạt Pháp thân Phật, tức là đức Phật A Di Đà nguyên thủy.

Như tôi đã nói từ trước, các pháp tu Kim Cương Thừa không thể thành tựu nếu không dựa trên sự thực hành Đại Thừa. Điều này thể hiện rõ ngay trong sự tu tập, khi bạn quán tưởng Bồ tát Quan Thế Âm nơi tim Thượng sư Liên Hoa Sinh, và tiếp đến quán tưởng đức Phật Di Đà nơi tim của Bồ tát Quan Thế Âm.

Tôi đã vừa truyền trao Quán đỉnh, tiếp đến là khẩu truyền GuruYoga. Chúng ta tới trang 40, phần này Hành giả quán tưởng tự thân là Vajrayogini. Để có thể quán tưởng như vậy, chúng ta cần phải được nhận quán đỉnh Vajrayogini, nhưng hiện nay các bạn chưa được nhận Quán đỉnh này. Bởi vậy bạn hãy quán tưởng trước mặt phía trên đỉnh đầu, là hình ảnh Thượng sư Liên Hoa Sinh, sau đó tiếp tục thực hành GuruYoga.

Guru Yoga là pháp tu thiết lập nhịp cầu kết nối tâm hành giả với tâm giác ngộ của bậc Căn Bản Thượng Sư. Nói cách khác, để thực hành Kim Cương Thừa, trước hết hành giả phải thiết lập nhịp cầu nối với Thượng sư. Bởi vậy, GuruYoga thực sự có nghĩa là hành động, thực hành kết nối tâm hành giả với tâm giác ngộ của Thượng sư.

Chúng ta cần thấu hiểu Thượng sư là gì? Thượng sư là sự hợp nhất của tất cả Chư Phật, chư Bồ tát. Đồng thời bạn cũng cần hiểu hiện giờ bạn là người chưa chứng ngộ, là một người phàm trần, với đầy những tham, sân, si chi phối. Bởi vậy giờ đây thông qua pháp thực hành này, bạn dần ngày một tỉnh thứchiểu biết hơn. Bạn sẽ hiểu được sự hợp nhất thực sự của Phật, Pháp, Tăng trong chính mình. Đó là GuruYoga.

Chúng ta giở trang 40, trong phần nghi quỹ này, Hành giả phải quán tưởng tự thân là Vajrayogini, nhưng như tôi đã nói lúc trước, nếu bạn không nhận được Quán đỉnh này thì bạn không được quán tưởng tự thân là Vajrayogini. Bởi vậy bạn hãy tạm thời bỏ qua phần này, bây giờ tôi sẽ truyền Lung.

Trang 40, bắt đầu: "Ranglung…" có nghĩa là trong hư không trước mặt, chúng ta cần quán tưởng Thượng sư Liên Hoa Sinh, sau đó cúng Tshog. Đó là pháp chúng ta cần quán tưởng và đã được dịch sang tiếng Việt. Tôi hy vọng quý vị có thể hiểu được những điều trong đó. Tiếp đến là phần triệu thỉnh thông qua "Bảy lời cầu nguyện" (Phần này ở trang 42). Chúng ta tiếp tục tới Bảy lời cầu nguyện. Tôi sẽ truyền khẩu cho các bạn. Đây là phần chính của Guru Yoga mà bạn phải thực hành, bạn phải thực hành hàng trăm ngàn lần, bạn nên trì niệm bài này nhiều lần cùng một lúc, sẽ giúp bạn hiểu sâu được ý nghĩa bên trong của Guru. Bây giờ quay trở lại trang 40. Tôi đã khẩu truyền nhưng chúng ta phải thực hành mới có thể thấu hiểu được.

 Nếu thực hành với tín tâm chí thành, bạn có thể triệu thỉnh được Thượng sư Liên Hoa sinh. Rất nhiều trường hợp, các Thượng sư chỉ thực hành phần này để hoàn thành nghi quỹ Liên Hoa sinh. Đây là phần Cầu nguyện hay lời Triệu thỉnh bằng uy lực mạnh mẽ nhất của nghi quỹ, với mục đích thỉnh cầu Ngài giáng lâm. Thông qua pháp thực hành này, nhiều Thượng sư đã làm được rất nhiều điều phi thường, thậm chí đã kết nối, nói chuyện được với Ngài, thậm chí Ngài còn thị hiện, trợ giúp, hộ pháp cho bạn vượt qua chướng ngại, và bạn sẽ được thụ nhận rất nhiều Giáo Pháp từ Ngài. Có rất nhiều câu chuyện phi thường về Ngài, sau khi các Hành giả thực hành Bảy lời cầu nguyện. Đây không phải là bài cầu nguyện thông thường như chúng ta thường tụng, cũng không phải do các Thượng sư viết, mà đây là những lời cầu nguyện do phi nhân là các Dakini viết để triệu thỉnh Ngài. Bởi vậy đây là những lời cầu nguyện triệu thỉnh với đầy những uy lực mạnh mẽ. Hãy nhất tâm thực hành, vì bạn đã được nhận Giáo PhápQuán đỉnh Thượng sư Liên Hoa sinh. Hãy thực hành nghi quỹ này 10 triệu lần. Bạn cần trì tụng 10 triệu biến, để có thể hoàn thành phần nghi quỹ Thượng sư Liên Hoa Sinh trong GuruYoga. Cuối cùng tới trang 41, bạn có thể thực hành trong một thời gian ngắn nhưng phần chính yếu phải tập trung là tâm chú “OM AH HUNG BENDZA GURU PADMA SIDDHI HUNG”. Bạn có thể thực hành dễ dàng vì bài này rất ngắn.

 Tôi đã giảng xong giáo pháp về phần tu Liên Hoa Sinh, và cũng đã trì tụng cùng mọi người. Tôi tâm nguyệntin tưởng chư Đại đức Tăng ni, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, các Phật tử đã có phúc duyên thụ nhận quán đỉnh sẽ thực hành ít nhất là phần GuruYoga toát yếu này. Chúng ta cũng cần phải thực hành đầy đủ các phần, từ Bảy lời cầu nguyện, tiếp theotâm chú 10 triệu biến, và tu trì GuruYoga sau khi hoàn thành 10 triệu biến. Tôi tâm nguyện và luôn tin tưởng rằng: những ai tu tập thành tựu pháp tu này, đều ân hưởng được năng lượng của Chư Phật, mang lại lợi ích bình an cho tất cả muôn loài, cho đất nước và nhân dân Việt Nam, và tất nhiên cho cả bản thângia đình mình.

Thay mặt các Phật tử, đệ tử Truyền thừa, tôi muốn gửi lời tri ân tới tất cả mọi ngời trong Ban tổ chức, các Ban Ngành đoàn thể, đặc biệt thành hội Phật giáo Hà nội, đã thỉnh cầu tôi tới đây và cho chúng ta cơ hội chia sẻ Giáo Pháp hôm nay. Từ ngay giây phút này, chúng ta không nên lãng phí cơ hội, thời gian quý báu trong cuộc đời, không nên luống uổng những phúc duyên hy hữu của chúng ta đã được nhận Giáo Pháp Tôn quý, hãy thực sự tận dụng thời gian quý báu, thực hành Giáo Pháp nhiệm màu, sống làm sao cho có ý nghĩa, để mang lại lợi ích cho tất cả chúng hữu tình. Xin chân thành cảm niệm tri ân!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29882)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27167)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20421)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24737)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24734)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23210)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19035)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23141)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22903)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34160)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39227)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18843)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30939)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20667)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26247)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30021)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15138)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15824)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant