Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm An Lạc Hạnh

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10903)
14. Phẩm An Lạc Hạnh

Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn


An là lìa được hiểm nguy (phiền não)

Lạc là thân tâm vui vẻ.

Hạnh là oai nghilời nói đáng noi theo.

Liễu vạn pháp ở tính thể rỗng yên, không an, không trụ, không hành, đó là chân an lạc. Từ chân an lạc ấy mà rộng bày Diệu Pháp Liên Hoa, đó là hạnh an lạc. Cho nên Phẩm An Lạc Hạnh này được dựng lập.

“Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn ! các vị Bồ Tát này rất khó có, vì kính thuận Phật nên phát đại thệ nguyện ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa này. Thế Tôn ! Các vị Đại Bồ Tát ở đời ác sau, làm sao mà có thể nói kinh này?”.

Vì các vị Đại Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết cùng chúng hội Bồ Tát đều phát lời thệ nguyện “Trì” kinh Pháp Hoa nên Đại Trí Văn Thù mới thưa hỏi Đức Thế Tôn “làm sao có thể nói kinh này” trong đời ác năm trược. Vì khi thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì cần phải năng hành, năng liễu mới có thể vì người khác mà giảng nói được.

Do đó, Phật bảo Ngài Văn Thù : Nếu vị Bồ Tát ở đời ác sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp :

An trụ nơi Hành xứ và Thân cận xứ.

a) Hành xứ

“Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là chỗ hành xứ của Đại Bồ Tát?”

“Nếu có vị Đại Bồ Tát an trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu, khéo thuận không vụt chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại đối với pháp không phân biệt mà quán tướng như thật, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt, đó là chỗ hành xứ của Bồ Tát”.

Vì hàng Thanh văn lấy ly dục làm gốc, hàng Bồ Tát lấy nhẫn nhục làm gốc, tâm thường cùng với chân thật tướng tương ưng. Đối với tất cả sự động loạn của ngoại cảnh, ngoại duyên, Bồ Tát vẫn ở trong tự thể của an định, chẳng vướng chấp nơi “hữu hành” và “vô hành”, không và hữu cả hai đều không an trụ. Do vậy, Bồ Tát ở trong tự tánh thanh tịnh sáng soi mà hòa lạc với muôn loài.

b) Thế nào là thân cận xứ của Đại Bồ Tát?

Kinh chia làm hai phần:

1- Bất thân cận (chỗ không nên gần)

Vị Đại Bồ Tát chẳng gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng... chẳng gần gũi các ngoại đạo, phạm chí, ni kiền tử ... chẳng gần kẻ viết sách thế tục, ca ngâm, sách ngoại đạo, cùng phái lộ già da đà, phái nghịch lộ già da đà, kẻ chơi hung hiểm, đâm nhau, đánh nhau và bọn na la, bọn chiên đà la, hàng thịt, kẻ nuôi súc vật, săn bắn, chài lưới. Những người như thế hoặc có lúc họ lại đến, thời Bồ Tát vì đó nói pháp mà không có lòng mong cầu.

Tại sao Bồ Tát phải tránh xa những vấn đề như thế?

Bởi vì để phó chúc cho kẻ kế thừa chưa đủ trí và lực trong việc hiện hành Bồ Tát hạnh, nên đối với chúng sinh còn dẫy đầy tham dục, nếu cùng họ gần gũi mà chẳng tùy thuận thì bị nghịch cảnh làm ngăn trở việc hành trì giáo pháp Đại thừa.

Như đối với kẻ ngoại đạo như phái lộ già da đà là phái chủ trương muôn vật do đất, nước, gió, lửa mà thành tứ đại có hai nguyên tố chất và lực. Tứ đại bất diệt, muôn vật bất diệt, không có luân hồi, xuất thế gì cả, cứ làm theo lòng ham muốn là được. Cùng phái ngược lại là nghịch lộ già da đà, cho nên các luận phái tranh chấp nhau, tạo ra nhiều ác kiến đối với “chân tánh bình đẳng nhất như” chẳng tương ứng chút nào cả, chẳng nên gần gũi họ. Vì gần gũi họ làm cho các chúng sinh có thể khởi động phân biệt mà rơi vào đảo tưởng. Đối với những chúng sinh ấy nếu có đến với Bồ Tát sẽ vì họ mà tùy cơ nghi thuyết pháp, mà không khởi niệm mong cầu gì ở họ cả. Hơn nữa gần gũi họ chúng sinh khác sinh tâm phân biệt. Điều đó cũng có ý nghĩa là đối với Bồ Tát khi hiện hành nơi các thiện ác nhiễm trong tâm thể vẫn an nhiên không hề trói buộc.

“Lại chẳng gần gũi Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ Tát tùy cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu”.

Vì sao thế? Vì những hạng người trên đắm chấp nơi tiểu pháp, đối với kinh pháp Đại thừa khó tin, khó hiểu, chẳng lãnh hội được. Lại những hành vi của Bồ Tát tùy thuận chúng sinh, họ không hiểu thấu, sinh ra chê bai, sinh tâm phân biệt, dấy lên những niệm tốt, xấu, hơn, thua, phải, trái ... Lại rao truyền bên ngoài tổn hại đến sự hành trì mật hạnh của Bồ Tát và sự tu dưỡng của chính họ. Nếu họ có đến hỏi pháp thì tuỳ cơ mà thuyết “Diệu pháp Đại thừa” do vì không vướng nhiễm khi hiện hành, nên kinh viện dẫn “chẳng nên mong cầu gì ở nơi họ cả”.

“Văn Thù Sư Lợi! Lại vị Đại Bồ Tát chẳng nên đối với thân người nữ, thấy tướng có thể sinh tưởng dục nhiễm mà nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng gái nhỏ, gái trinh, gái góa chung nói chuyện, cũng chẳng gần năm thứ người bất nam để làm thân hậu”.

Vì sao thế? vì gần gũi như vậy làm cho họ sinh tưởng dục nhiễm, bởi “người nữ” ái nhiễm mang nặng. Đã là bậc đại trí thì phải rõ thông muôn pháp. Đối với những người ái nhiễm còn mang nặng mà kinh đã dụ như “các người nữ, cùng những kẻ đoạn căn”. Vỏ vô minh còn dày, tâm phân biệt ấy khởi không ngừng, không một sớm một chiều mà tiến dẫn họ bước ngay vào “lý đạo Nhất thừa”. Trái lại, việc tùy thuận họ chưa đúng thời, đúng lúc, tạo ra những cảnh duyên làm cho tâm niệm mọi chúng sinh chưa hiển lộ “lý đạo Nhất thừa” sinh tâm phân biệt, chẳng có lợi gì cho việc hành trì giáo pháp Đại thừa vậy.

“Cũng chẳng riêng mình vào nhà người, nếu có nhân duyên riêng mình vào thì chuyên lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thì chẳng hở răng cười, chẳng bày hông ngực, nhẫn đến vì pháp mà chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa Di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng đồng một thầy”.

Đây là những duyên sự có thể tạo cơ duyên nghi ngờ cho kẻ khác làm cho họ thối thất Bồ đề tâm và cũng cơ duyên tạo cho những kẻ có tâm ái nhiễm dấy khỏi. Vì sự thân cận của mình, việc nuôi dưỡng đệ tử Sa Di ít tuổi và các trẻ nhỏ, làm cho Bồ Tát phải dùng đến một số phương tiện như: cơm ăn, áo mặc, dạy dỗ, lắm lúc hiện ra những tướng trạng: nghiêm nghị, lo âu, chăm sóc... làm cho tâm niệm sinh diệt của chúng sinh dấy khởi, vì những sự việc đó mà mất niềm tin vào “lý đạo Nhất thừa”.

2- Thân cận xứ (chỗ nên gần)

* Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Đây là chỗ thanh tịnh u nhàn, tạo cảnh duyên cho chúng sinh quy nhiếp.

Lại nữa vị Đại Bồ Tát quán nhất thiết pháp không như thiệt tướng, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển.

* Chỗ thứ hai của Bồ Tát thân cận là xa lìa điên đảo còn gọi là ngồi thiền nơi chỗ vắng vẻ, luôn luôn hiểu rõ thật tướng của các pháp ở thể thường trụ. Nhận rõ, trong mọi hành pháp “như hư không, không có thật tánh, dứt tất cả đường nói phô, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi”.

Vì không có sở đắc nên chân như tính nhiệm mầu hiển lộ.

“Không danh, không tướng, thiệt không chỗ có, chỗ lường, chỗ ngăn, không ngại, không chướng”.

Tất cả vọng pháp đều không có “sở hữu”. Lìa tất cả phiền não nên “vô ngại”. Lìa tất cả sở tri chướng nên được “không chướng”. Không kẹt trong phương sở nên gọi là “không ngăn”. Vượt cả không gianthời gian nên gọi là “không chỗ, không lường”.

Tất cả “chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh cho nên nói thường ưa quán sát pháp tướng. Như thế gọi là thân cận thứ hai của Bồ Tát”.

Tất cả pháp đều do vô minh vọng khởi, cho nên gọi là “do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh”. Thường quán sát pháp tướng như thế mà xa lìa phiền não chướngsở tri chướng vậy.

Phần trùng tụng được lập lại ý nghĩa trên.

c) An lạc:

Thân tâm bình an vui vẻ không làm trái ý người, khi có người hỏi đạo dùng pháp Đại thừa mà giải.

Nhưng “chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển, cũng chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Đối với hàng Thanh văn, cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó, lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm”.

Đại Bồ Tát sống xứng hợp với tự tánh chân chính, tự tánh thanh tịnh, nên không bao giờ mở miệng nói người khác lỗi, quấy, hay, dở, tốt, xấu.

Chúng ta phải hiểu rõ rằng một niệm khởi là một sự buộc ràng. Khởi niệm dữ thì tương ứng với cảnh giới địa ngục: khởi niệm lành thì tương ưng với cảnh giới thiên đường: độc hại tương ưng rồng rắn. Từ bi tương ưng cảnh giới Bồ Tát. Trí tuệ tương ưng cảnh giới giải thoát.

Lành dữ tuy khác mà gốc tánh lại không nhiễm lành dữ. Bậc đại trí cần phải vượt qua sự tương phân đối đãi này.

Do vậy, khi hành đạo Bồ Tát, chúng ta phải biết “ứng cơ tiếp vật” mà không rời tự tánh thanh tịnh vậy.

Vì khéo tu lòng an lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý, có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa mà đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa vì họ giải nói làm cho đặng bậc “nhất thiết chủng trí”.

“Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ Tát ở đời rốt sau, lúc pháp gần diệt mà thọ trì, đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh ghét, dua vạy, dối gạt, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ Tát đạo, đều không đặng làm não họ, khiến kia sinh lòng nghi hối. Như nói họ: “Các ngươi cách đạo rất xa, trọn chẳng thể đặng bậc nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì các ngươi là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo, lại nữa cũng chẳng nên hý luận các pháp. Với tất cả chúng sinh khởi tưởng đại bi, với tất cả chúng sinh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng nên nói nhiều”.

Vì lòng thương xót chúng sinh và chẳng hý luận các pháp, nên đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳngthuyết pháp. Đối với kẻ ái pháp không nên thuyết nhiều, vì từ đó sẽ mở đường cho tranh luận, trái với pháp tính nhiệm mầu vậy.

Đó là thành tựu hạnh an lạc thứ ba.

d) Đầy đủ lòng từ bi rộng lớn

“Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt, có nói kinh Pháp Hoa này với hạng người tại gia, xuất gia sinh lòng đại từ, với hạng người chẳng phải Bồ Tát sinh lòng đại bi”.

Như thế nghĩa là người tại gia hay xuất gia đã trì kinh này tu hạnh Đại thừa, tất cầu quả vui thù thắng Đại thừa. Bồ Tát dùng đại từ tâm mà đem niềm vui đến cho người đó vậy.

Đối với người không tu hành Đại thừa, gọi là “người chẳng phải Bồ Tát” thì Bồ Tát cần đem đại từ bi tâm mà giải trừ cho người ấy lìa các khổ, dẫn đến Đại thừa. Phải nghĩ như thế này: “Những người như thế thời mất lợi lớn, Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp, mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng hiểu, chẳng tin kinh này, lúc “ta đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt họ, khiến đặng trụ trong pháp này”.

Đây là Bồ Tát khởi tâm đại từ bi thương xót những chúng sinh căn trí hạ liệt, không rõ là Như Lai phương tiện tùy thuận theo căn cơ của chúng sinh mà dẫn dắt vào “lý đạo Nhất thừa”.

Do vì căn trí hạ liệt mà những chúng sinh ấy chưa tin, chưa hiểu, chưa nghe, chưa biết, chưa hỏi về lý chân thật của đại thừa, mà tin Phật như các vị trời, thần, tiên, quỷ, chẳng rõ thông lý mầu Phật pháp lại cầu phước báu nhân thiên, xa rời tánh giác, Bồ Tát phải dùng sức đại bitrí tuệ dẫn độ họ đến đại pháp Nhất thừa.

“Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ Tát đó sau khi Như Lai diệt độ, nếu thành tựu đặng pháp thứ tư này, thời lúc nói pháp này không lầm lỗi, thường được Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà la môn, cư sĩ phải cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư thiên nghe pháp cũng thường hầu. Vì sao? vì kinh này được sức thần lực của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy”.

Đến đây Đức Thế Tôn lại bảo Ngài Văn Thù rằng:

Thí như vua Chuyển Luân,

Thánh Vươngsức mạnh,

Binh đánh giặc có công,

Thưởng ban những đồ vật,

Voi, ngựa và xe cộ,

Đồ trang nghiêm nơi thân,

Và những ruộng cùng nhà,

Xóm làng thành ấp thảy,

Hoặc ban cho y phục,

Các món báu trân kỳ,

Tôi tớ cùng của cải,

Đều vui mừng ban cho,

Nếu có người hùng anh,

Hay làm được việc khó,

Vua mới mở búi tóc,

Lấy minh châu ban thưởng.

Với dụ trên có ý nghĩa là các binh chủng Thánh Hiền đã trừ dẹp các ma, diệt ba độc, ra khỏi ba cõi, lúc đó mới có thể nhận lãnh được giáo pháp Tối thượng thừa hay nhận lãnh Diệu Pháp Liên Hoa này vậy.

Đức Như Lai cũng thế,

Là vua trong các pháp,

Sức nhẫn nhục rất lớn,

Tặng báu đại trí huệ,

Dùng lòng đại từ bi,

Đúng như pháp hóa đời,

Thầy tất cả mọi người,

Chịu các điều khổ não,

Muốn cầu được giải thoát,

Cùng các ma đánh dẹp,...

Phật vì chúng sinh đó,

Nói các món kinh pháp,

Rốt sau mới vì chúng,

Nói kinh Pháp Hoa này,

Như vua thánh mở tóc,

Lấy minh châu ban thưởng,...

Sau khi ta diệt độ,

Người mong cầu Phật đạo,

Muốn đặng tu an ổn,

Diễn nói kinh pháp này,

Phải nên thường thân cận,

Bốn pháp trên như thế

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31346)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26229)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27537)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27928)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26726)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31244)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20282)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22966)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30078)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21595)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20282)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22682)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20782)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30339)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28801)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34742)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44248)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35539)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22564)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21386)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20701)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24771)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37937)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19072)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19354)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20886)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29534)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35163)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32620)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26234)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28941)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43955)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37924)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21342)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43038)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39858)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36833)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40828)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27038)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24081)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20865)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34327)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22484)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25137)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25860)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22961)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22477)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21768)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23329)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21192)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant