Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm thứ chín: Tà chánh

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12458)
Phẩm thứ chín: Tà chánh

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ bảy

PHẨM THỨ CHÍN: TÀ CHÁNH

PHẦN IX:

- Lúc bấy giờ, ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Bốn thứ người như đã nói trên cần phải y chỉ sao?

Ðức Phật dạy rằng :

- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Này thiện nam tử ! Ðúng như ta đã nói, cần phải y chỉ ! Vì sao vậy ? Vì có bốn loại ma. Những gì là bốn ? Ðúng như lời nói của ma, các Kinh luật khác có thể thọ trì.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói, có bốn thứ ma thì như lời nói của ma và lời nói của đức Phật con làm sao mà phân biệt được ? Có những chúng sinh theo đuổi ma hạnh, lại có chúng sinh thuận theo lời dạy của đức Phật. Những bọn như vậy lại làm sao biết được ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Ca Diếp ! Sau khi ta vào Niết Bàn bảy trăm năm thì ma ba Tuần này dẫn dần sẽ hủy hoại, nhiễu loạn chánh pháp của ta. Ví như người thợ săn thân mặc pháp phục, Ma vương Ba Tuần cũng lại như vậy, hóa làm hình dáng Tỳ kheo, hình dáng Tỳ kheo ni, hình dáng Ưu bà tắc, hình dáng Ưu bà di. Vua ma cũng lại hóa làm thân Tu đà hoàn... cho đến hóa làm thân A la hánsắc thân của đức Phật. Ma vương dùng hình tướng hữu lậu này hóa làm thân vô lậu mà hủy hoại chánh pháp của ta. Khi ma Ba Tuần này hủy hoại Chánh pháp thì sẽ nói lên rằng : “Ðức Bồ tát khi xưa ở trên cõi trời Ðâu Suất mất đi, hiện đến cung vua Bạch Tịnh tại thành Ca Tỳ La này, nương vào cái nhân ái dục hòa hợp của cha mẹ mà sinh ra, nuôi lớn thân này. Nếu nói rằng, có người sinh ra trong loài người mà được sự cung kính của đại chúng trời người các thế gian thì không có điều đó”. Lại nữa, ma còn nói rằng : “Thuở xưa đức Bồ tát khổ hạnh đủ thứ, bố thí đầu, mắt, não, tủy, đất nước, thành quách, vợ con nên hôm nay được thành Phật đạo. Do nhân duyên này nên được sự cung kính của những trời, người, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già”. Nếu có Kinh luật nói lời nói này thì ông phải biết đó là lời nói của ma.

Này thiện nam tử ! Nếu có Kinh luật nói lời như vầy : “Ðức Như Lai Chánh Giác thành Phật đã lâu, nay ngài phương tiện thị hiện là vì muốn độ thoát các chúng sinh. Ngài thị hiệncha mẹ nương vào nhân ái dục hòa hợp mà sinh ra. Ngài thuận theo thế gian tạo tác sự thị hiện này”. Kinh luật nói như vậy thì ông phải biết, đó quả thậtlời nói của Như Lai. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu có người có thể thuận theo lời nói của Phật thì tức là Bồ tát.

Nếu có người nói rằng, Như Lai ra đời, ở mười phương diện, đều đi bảy bước. Không thể tin điều đó là lời nói của ma. Nếu có người lại nói rằng, Như Lai ra đời, ở mười phương diện đều đi bảy bước, đó là phương tiện thị hiện của Như Lai. Ðó gọi là lời nói Kinh luật của Như Lai. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo lời nói của Phật thì tức là Bồ tát. Nếu có người nói rằng, Bồ tát sinh ra rồi vua cha sai người đem đến miếu thờ trời, chư thiên thấy rồi đều sụp xuống lễ kính. Vậy nên gọi là Phật. Lại có người nạn vấn rằng, trời xuất hiện trước, Phật ở sau họ thì tại sao chư Thiên lễ kính đối với Phật ? Kẻ đặt ra vấn nạn đó thì ông phải biết đó tức là lời nói của ma Ba Tuần.

Nếu có Kinh nói rằng, Phật đến miếu thờ trời thì chư Thiên, Ma Ê Thủ La, Ðại Phạm Thiên vương, Thích Ðề Hoàn Nhân.v.v... đều chắp tay cung kính làm lễ dưới chân Phật. Kinh luật nói như vậy thì chính là lời nói của Phật. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo lời nói của Phật thì tức là Bồ tát. Nếu có Kinh luật nói rằng, Bồ tát khi làm thái tử, vì dục tâm nên khắp bốn phương tìm hỏi vợ, ở tại thâm cung tự vui sướng hưởng thụ lạc. Kinh luật như vậy là lời nói của ma Ba Tuần.

Nếu có nói rằng, Bồ tát từ lâu đã lìa bỏ dục tâm, vợ con, quyến thuộc... cho đến chẳng hưởng thụ năm dục thượng diệu của trời Ba mươi ba như nhổ bỏ nước bọt, huống gì là sự ham muốn của loài người. Ngài cạo bỏ râu tóc xuất gia tu đạo. Kinh luật nói như vậy thì chính là lời nói của Phật. Nếu có người thuận theo Kinh luật của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo Kinh luật của Phật thì tức là Bồ tát.

Nếu có người nói rằng, đức Phậttinh xá Kỳ Ðà (Hoàn) tại nước Xá Vệ, cho phép các Tỳ kheo nhận nuôi nô tỳ, người sai khiến, trâu dê, voi ngựa, lừa la, gà heo, mèo chó, vàng bạc, lưu ly, trân châu, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, hỗ phách, kha cụ, bích ngọc, nồi chõ bằng đồng bằng sắt, mâm đồng lớn nhỏ... những vật cần dùng, cày ruộng, gieo trồng, buôn bán, trao đổi, tích trữ lúa gạo... Mọi việc như vậy, do đức Phật từ bi, thương xót chúng sinh nên đều cho phép gom chứa. Kinh luật nói như vậy đều chính là ma nói.

Nếu có người nói rằng, đức Phật ở chỗ sở trụ của quỉ Na Lê Lâu tại tinh xá Kỳ Ðà nước Xá Vệ, bấy giờ đức Như Lai, nhân Bà la môn tự là Cổ Ðê Ðức và vua Ba Tư Nặc, nói rằng : “Này Tỳ kheo ! Chẳng nên nhận nuôi chứa vàng bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã não, san hô, hỗ phách, kha cụ, bích ngọc, nô tỳ, người sai khiến, đồng nam, đồng nữ, trâu dê, voi ngựa, lừa la, heo gà, mèo chó.v.v... nồi chõ bằng đồng bằng sắt, mâm đồng lớn nhỏ, đủ loại tạp sắc giường nằm, trải ngoại cụ, đồ cần dùng trong cuộc sống. Nào là nhà cửa, cày ruộng, gieo trồng, buôn bán, trao đổi, tự tay làm ra đồ ăn, tự mài dũa, tự đâm giã, chú thuật sữa trị thân, phương pháp điều phục chim ưng, ngước xem tinh tú (xem bói toán), đoán vận đầy vơi, xem tướng nam nữ, giải mộng kiết hung, là nam, là nữ, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, sáu mươi tư khả năng, lại có mười tám thứ chú thuật mê hoặc người, đủ thứ nghề khéo. Hoặc nói vô lượng việc tục của thế gian, tung rải hương bột, hương xoa, hương xông, đủ loại vòng hoa cài tóc, phương thuật sửa trị tóc, gian ngụy, dua nịnh quanh co, tham lợi không chán, ưa thích náo nhiệt, nói năng cười giỡn, ham thích thịt cá, hòa hợp độc dược, trị yểm dầu thơm, nắm giữ bảo cái và cả giày da, chế tạo quạt, tủ, hòm, đủ thứ hình vẽ, gom chứa lúa gạo, đậu mì lớn nhỏ và những quả trái, gần gũi quốc vương, con vua, đại thần và các nữ nhân lớn tiếng cả cười hoặc lại lặng thinh, ở trong các pháp sinh ra nhiều nghi hoặc, nhiều lời dối nói dài ngắn, đẹp xấu, hoặc thiện hay chẳng thiện, ưa mặc áo đẹp... đủ thứ những điều bất tịnh như vậy. Ở trước thí chủ, thân mình tự khen, du hành ra vào những chỗ bất tịnh như là quán rượu, nhà dâm nữ, sòng bài bạc... Những người như vậy ta nay chẳng cho phép ở trong hàng Tỳ kheo, cần phải ngưng tu đạo trở về làm người sai việc của thế tục, ví như cỏ lồng vực, bông kê đều diệt, không còn. Ông phải biết sự cấm chế của Kinh luật này.v.v... đều chính là lời nói của Như Lai vậy. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của đức Phật thì tức là Bồ tát.

Nếu có người nói rằng, đức Bồ tát muốn cúng dường thiên thần nên vào miếu thờ trời như là nơi thờ trời Phạm, trời Ðại Tự Tại, trời Vi Ðà, trời Ca chiên diên... Sở dĩ vào đó là vì ngài muốn điều phục chư thiên. Nếu chẳng nói vậy thì không có điều đó. Nếu nói rằng, Bồ tát chẳng thể vào với tà luận ngoại đạo, biết được uy nghi, văn chương, kỹ nghệ của tà luận ấy, cùng với kẻ sai khiến đấu tranh chẳng hòa hợp, chẳng được sự cung kính của nam, nữ, quốc vương, đại thần. Lại nữa ngài cũng chẳng biết hòa hợp các thảo dược, vì chẳng biết nên mới gọi là Như Lai. Như những người biết ấy thì chính là bọn tà kiến. Lại nữa, Như Lai đối với kẻ oán, người thân lòng luôn bình đẳng. Như người dùng dao cắt và người dùng hương xoa thân. Ðối với hai người này ngài chẳng sinh ra lòng tăng thêm hay lòng giảm bớt. Ngài chỉ ở mực giữa nên gọi Như Lai. Kinh luật nói như vậy thì ông phải biết đó là lời nói của ma.

Nếu có người nói rằng, đức Bồ tát thị hiện như vậy, vào trong pháp ngoại học, miếu thờ trời, xuất gia tu đạo, thị hiện biết những uy nghi, lễ tiết ấy, có thể giải được tất cả văn chương, kỹ nghệ, thị hiện thư đương (nhà đọc sách), chỗ kỹ xão, có thể giỏi hòa hợp với những kẻ sai khiến đấu tranh. Ở trong các đại chúng, đồng nam, đồng nữ, phi hậu của hậu cung, nhân dân, trưởng giả, Bà la môn, quốc vương, đại thần và kẻ bần cùng.v.v... thì ngài là tối tôn, tối thượng. Ngài lại được sự cung kính của những người đó. Ngài cũng có thể thị hiện những việc như vậy. Ngài tuy ở với các kiến nhưng chẳng sinh ra ái tâm, giống như hoa sen chẳng thọ trần cấu. Vì độ tất cả các chúng sinh nên ngài giỏi làm đủ thứ phương tiện như vậy để thuận theo pháp của thế gian. Kinh luật nói như vậy thì ông phải biết đó tức là lời nói của Như Lai. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu người thuận theo lời nói của Phật thì đó là Ðại Bồ tát. Nếu có người nói rằng, đức Như Lai vì ta mà giải nói Kinh luật. Nếu tội nặng nhẹ trong ác phápthâu lan già mà tính ấy đều nặng thì trong Luật chúng ta nhất định chẳng là thế. Ta từ lâu đã nhận thọ pháp như vậy mà các ông chẳng tin thì ta sao phải tự bỏ luật của mình theo luật các ông vậy ? Luật vốn có của ông là lời nói của ma. Kinh luật của chúng ta chính là đức Phật đã chế ra. Ðức Như Lai trước đã nói chín bộ pháp ấn. Chín ấn như vậy ấn chứng Kinh luật của ta mà bắt đầu chẳng nghe có một chữ, một câu của Kinh điển Phương Ðẳng. Ðức Như Lai đã nói vô lượng Kinh luật mà chỗ nào có nói đến Kinh Phương Ðẳng vậy? Như vậy trong Phương Ðẳng chưa từng nghe có tên mười bộ Kinh. Như trong ấy có thì phải biết, nhất địnhsự tạo tác của ông Ðiều Ðạt (Ðề Bà Ðạt Ða). Người ác Ðiều Ðạt vì muốn tiêu diệt thiện pháp nên tạo ra Kinh Phương Ðẳng, chúng ta chẳng tin. Như vậy Kinh Phương Ðẳng chính là lời nói của ma. Vì sao vậy ? Vì phá hoại Phật pháp, tranh nhau phải, trái. Lời nói như vầy : trong Kinh của ông có, trong Kinh của ta không. Trong Kinh luật của ta đức Như Lai nói rằng, sau khi ta (Phật) Niết Bàn, ở đời ác sẽ có Kinh luật bất chính như là Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng, ở đời vị lai sẽ có những ác Tỳ kheo như vậy. Ta lại nói rằng, qua chín bộ KinhKinh điển Phương Ðẳng. Nếu có người có thể rõ biết nghĩa của Kinh ấy thì phải biết, người đó rõ biết chân chánh Kinh luật, xa lìa tất cả vật bất tịnh, thanh tịnh vi diệu giống như vầng trăng tròn đầy. Nếu có người nói rằng, Như Lai tuy vì mỗi một bộ Kinh luật diễn nói nghĩa vị nhiều như cát sông Hằng nhưng trong Luật của ta không có thì phải biết là không. Như điều ấy có thì tại sao đức Như Lai, ở trong luật của ta mà không giải nói. Vậy nên ta nay chẳng thể tín thọ. Ông phải biết là người này bị đắc tội. Người này lại nói rằng, Kinh luật như vậy ta phải thọ trì. Vì sao vậy ? Vì Kinh sẽ vì ta tạo tác cái nhân thiện pháp tri túc, thiểu dục, trừ phiền não, trí tuệ, Niết Bàn. Người nói như vậy thì chẳng phải là đệ tử của ta (đức Phật).

Nếu có người nói rằng, đức Như Lai vì muốn độ chúng sinh nên nói Kinh Phương Ðẳng thì phải biết người này thật là đệ tử của ta. Nếu có người chẳng thọ Kinh Phương Ðẳng thì phải biết người này chẳng phải là đệ tử của ta, chẳng vì Phật phápxuất gia, tức là đệ tử của tà kiến ngoại đạo. Kinh luật nói như vậy chính là lời nói của Phật, nếu chẳng như vậy tức là lời nói của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì đó là quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của Phật thì tức là Bồ tát.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, đức Như Lai chẳng được sự thành tựu của vô lượng công đức, vô thường, biến dị mà do được không pháp nên tuyên nói vô ngã, chẳng thuận theo thế gian. Kinh luật như vậy gọi là lời nói của ma.

Nếu có người nói rằng, Như Lai Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn, cũng được sự thành tựu của vô lượng atăngkỳ công đức. Vậy nên Như Lai thường trụ, không có biến dị. Kinh luật nói như vậy chính là lời nói của Phật. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì đó là quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của Phật thì tức là Bồ tát.

Lại nữa, có người nói rằng, hoặc có Tỳ kheo thật chẳng hủy phạm tội Ba la dimọi người đều cho là phạm Ba la di như chặt cây Ða la thọ, nhưng Tỳ kheo này thật ra không có phạm điều gì. Vì sao vậy ? Vì ta thường nói rằng, bốn Ba la di nếu phạm một tội thì giống như chẻ đá, chẳng thể hợp trở lại được. Nếu có người tự nói được pháp hơn người thì gọi là phạm Ba la di. Vì sao vậy ? Vì thật không có sở đắc mà trá hiện tướng được. Người như vậy là thoái mất nhân pháp (pháp của loài người). Ðó gọi là Ba la di. Chẳng hạn như, hoặc có vị Tỳ kheo thiểu dục, tri túc, trì giới thanh tịnh, trụ ở chỗ không nhàn mà nếu vua, đại thần thấy vị Tỳ kheo này lòng phát sinh ý niệm cho rằng đã được A la hán, liền ở trước vị ấy khen ngợi, cung kính lễ bái. Họ lại nói rằng : “Như vậy đại sư bỏ thân này rồi thì sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Vị Tỳ kheo nghe rồi liền bạch với vua rằng : “Tôi thật chưa được đạo quả Samôn, nhà vua chớ nói là tôi đã được đạo quả. Nguyện xin địa vương chớ vì tôi nói pháp chẳng tri túc. Người chẳng tri túc là thậm chí được người cho là được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác đều mặc nhiên nhận lấy. Tôi nay nếu sẽ mặc nhiên nhận lấy thì sẽ bị sự quở trách của chư Phật. Hạnh tri túc của chư Phật khen ngợi. Vậy nên tôi muốn trọn đời vui sướng phụng tu tri túc. Lại nữa, tri túc thì tôi nhất định tự biết mình chưa được đạo quả. Nhà vua xưng là tôi được, tôi nay chẳng nhận lấy nên gọi là tri túc”. Vị vua đáp rằng : “Ðại sư quả thật đã được quả A la hán như đức Phật không khác”. Bấy giờ vị vua ấy đều tuyên cáo khắp trong ngoài nhân dân và hậu phi trong cung khiến cho họ đều biết vị Tỳ kheo được quả diệu môn. Vậy nên đều khiến cho tất cả người nghe, lòng sinh tin kính, cúng dường tôn trọng. Như vậy vị Tỳ kheo này chân thật là người tịnh tu phạm hạnh. Do nhân duyên này khiến cho khắp mọi người được phước đức lớn mà vị Tỳ kheo này chẳng hủy phạm tội Ba la di. Vì sao vậy ? Vì người ta tự sinh lòng hoan hỉ trước mà khen ngợi cúng dường. Như vậy vị Tỳ kheo sẽ có tội gì ? Nếu có người nói rằng, người đó đắc tội thì phải biết Kinh này là lời nói của ma.

Lại có vị Tỳ kheo nói Kinh điển thậm thâm mật tạng của đức Phật, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Do tính ấy nên đoạn được vô lượng ức những phiền não kết, liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, trừ Nhất xiển đề. Nếu vua, đại thần nói như vầy : “Này Tỳ kheo ! Ông sẽ làm Phật hay chẳng làm Phật vậy ? Ông có Phật tính không ?” Vị Tỳ kheo đáp rằng : “Ta nay trong thân nhất địnhPhật tính ! Còn thành hay chẳng thành thì chưa có thể phán xét được”. Nhà vua nói rằng : “Thưa đại đức ! Như người chẳng làm Nhất xiển đề ấy thì ắt thành không nghi hoặc ?” Vị Tỳ kheo nói rằng : “Người ấy quả thật như nhà vua nói. Người này tuy nói nhất địnhPhật tính mà cũng lại chẳng phạm tội Ba la di”. Lại có vị Tỳ kheo khi vừa xuất gia đã suy nghĩ rằng : “Ta nay nhất định thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Người như vậy tuy chưa được thành đạo quả Vô thượng nhưng đã làm được phước vô lượng vô biên chẳng thể xưng kể. Giả sử có người sẽ nói rằng, người này phạm Ba la di, thì tất cả Tỳ kheo không ai chẳng phạm cả. Vì sao vậy ? Vì ta ở tám mươi ức kiếp thuở xưa thường lìa khỏi tất cả vật bất tịnh, thiểu dục, tri túc, uy nghi thành tựu, giỏi tu pháp tạng vô thượng của Như Lai cũng tự nhất định biết bản thânPhật tính. Vậy nên ta nay được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, được gọi là Phật, có Ðại Từ Bi. Kinh luật như vậy là lời nói của Phật. Nếu có người chẳng thể thuận theo đó thì tức là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo thì chính là Ðại Bồ tát.

Lại có người nói rằng, không có bốn Ba la di, mười ba tăng tàn, hai bất định pháp, ba mươi xả đọa, chín mươi mốt pháp đọa, bốn pháp sám hối, mọi pháp đa học, bảy diệt tránh (tranh cãi), không Thâu-lan-già, năm tội nghịchNhất xiển đề.v.v... Nếu có Tỳ kheo phạm những điều như vậy thì đọa vào địa ngục, còn người ngoại đạo đều nên sinh lên trời. Vì sao vậy ? Vì những kẻ ngoại đạo không có giới (cấm) để phạm. Ðây là đức Như Lai thị hiện khủng bố con người nên nói ra giới ấy thôi. Nếu nói rằng, đức Phật dạy : “Các Tỳ kheo của ta, nếu muốn hành dâm thì nên bỏ pháp phục, mặc quần áo thế tục, rồi nhiên hậu mới hành dâm. Lại nên sinh ý niệmnhân duyên dâm dục chẳng phải tội lỗi của ta”. Ðức Như Lai tại thế cũng có Tỳ kheo quen làm dâm dục vẫn được Chánh giải thoát, hoặc sau khi mạng chung sinh lên cõi trời. Xưa nay có người làm những việc đó chứ chẳng phải riêng một mình ta làm, hoặc phạm bốn trọng cấm, hoặc phạm năm giới, hoặc làm tất cả luật nghi bất tịnh. Do vậy mà được đầy đủ giải thoát chân chánh. Ðức Như Lai tuy nói phạm Ðột-kiết-la thì đọa tại địa ngục tám trăm vạn năm tính theo năm tháng của trời Ðao Lợi. Ðó cũng là đức Như Lai thị hiện khủng bố con người thôi. Nói rằng, từ Ba-la-di đến Ðột-kiết-la nặng nhẹ không sai khác chỉ là các luật sư dối đặt ra lời nói này. Nói rằng, đó chính là Phật chế ra thì nhất định phải biết rằng, chẳng phải là lời nói của Phật. Lời nói như vậy chính là Kinh luật của ma. Nếu lại nói rằng, ở trong các giới, nếu phạm giới nhỏ thậm chí rất nhỏ (vi tế) thì phải chịu khổ báo không có giới hạn. Biết như vậy rồi, phòng hộ thân mình như con rùa giấu sáu chi thể. Nếu có vị luật sư lại nói rằng, phàm đã phạm giới đều không có tội báo. Người như vậy chẳng nên thân cận, như đức Phật đã nói :

Một pháp nếu (nói) qua Ðó là vọng ngữ

Chẳng thấy đời sau Không ác (gì) chẳng tạo.

Vậy nên chẳng nên gần gũi người này. Trong Phật pháp của ta thanh tịnh như vậy, huống là có người phạm tội Thâu-lan-già, hoặc phạm Tăng-tàn và Ba-la-di mà chẳng phải tội sao ? Vậy nên cần phải tự phòng hộ những pháp như vậy một cách sâu sắc. nếu chẳng thủ hộ thì lại lấy pháp gì gọi là cấm giới. Ta, ở trong Kinh, cũng nói có phạm bốn Ba-la-di... cho đến tội vi tế, Ðột-kiết-la.v.v... nên cần phải khổ trị. Chúng sinh nếu chẳng hộ trì cấm giới thì làm sao sẽ được thấy Phật tính. Tất cả chúng sinh tuy có Phật tính nhưng cần phải nhân trì giới, rồi nhiên hậu mới thấy được. Nhân thấy được Phật tính mới được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Trong chín bộ Kinh không có Kinh Phương Ðẳng. Vậy nên chẳng nói có Phật tính vậy. Kinh tuy chẳng nói nhưng phải biết thật sự là có. Nếu nói được lời nói này thì phải biết người đó chân thậtđệ tử của ta.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như trên đã nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà trong chín bộ Kinh đã chưa từng nghe nói, như vậy lời nói có ấy thì sao chẳng phạm Ba-la-di vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Ðúng như lời nói của ông ! Quả thật chẳng hủy phạm tội Ba-la-di ! Này thiện nam tử ! Ví như có người nói rằng, biển cả chỉ có bảy báu, không có tám thứ thì người nói đó không có tội. Nếu có người nói rằng, trong chín bộ Kinh không có Phật tính thì cũng lại không tội. Vì sao vậy ? Vì ở trong biển đại trí Ðại Thừa, ta nói có Phật tính. Người của Nhị thừa đã chẳng thấy biết được Phật tính nên nói không thì không có tội vậy. Cảnh giới như vậy là sự hiểu biết của chư Phật, chẳng phải là sự biết được của Thanh văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử ! Nếu người chẳng nghe tạng bí mật thậm thâm của Như Lai thì làm sao sẽ biết có Phật tính vậy ? Cái gì gọi là tạng bí mật ? Ðó là Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Này thiện nam tử ! Có các ngoại đạo, hoặc nói Ngã thường còn, hoặc nói Ngã đoạn mất. Như Lai chẳng vậy, cũng nói có Ngã, cũng nói không Ngã. Ðó gọi là trung đạo. Nếu có người nói rằng, đức Phật nói trung đạo, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, bị phiền não che phủ nên chẳng biết, chẳng thấy. Vậy nên cần phải siêng tu phương tiện đoạn hoại phiền não. Nếu có người có thể nói lời như vậy thì phải biết là người đó chẳng phạm bốn trọng cấm. Nếu có người chẳng nói lời như vậy thì đó gọi là phạm Ba-la-di. Nếu có người nói rằng, ta đã thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì sao vậy ? Vì ta có Phật tính mà có Phật tính thì nhất định sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì nhân duyên đó nên ta nay đã được thành tựu Bồ đề. Ông phải biết người đó gọi là phạm tội Ba-la-di. Vì sao vậy ? Vì tuy có Phật tính nhưng vì chưa tu tập các phương tiện tốt. Vậy nên chưa thấy, do chưa thấy nên chẳng thể được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Do ý nghĩa này nên Phật pháp thậm thâm chẳng thể nghĩ bàn.

Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Có vị vua hỏi rằng, sao gọi là Tỳ kheo rơi vào pháp quá nhân (qua người) ?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Nếu có Tỳ kheolợi dưỡng, vì ăn uống mà làm những việc dua nịnh, gian ngụy, dối trá để làm sao khiến cho những người thế gian nhất định phải biết ta (vị Tỳ kheo) là chân khất sĩ. Do nhân duyên đó khiến cho ta được nhiều lợi dưỡng, danh dự. Vị Tỳ kheo nhiều ngu si như vậy nên mãi mãi (đêm dài) thường nghĩ : “Ta thật chưa được bốn quả Samôn, phải làm sao khiến cho những người thế gian cho là ta đã được. Lại phải làm sao khiến cho những Ưu bà tắc, Ưu bà di.v.v... đều cùng chỉ ta mà nói như vầy, người phước đức này quả thật là thánh nhân”. Vị Tỳ kheo này suy nghĩ như vậy mà chuyên vì cầu lợi, chẳng phải vì cầu pháp. Ông ấy đi, lại, vào, ra, tiến, dừng an tường, nắm giữ y bát chẳng mất uy nghi, ngồi riêng một mình ở chỗ không nhàn như là bậc A la hán, khiến cho người thế gian đều nói lên rằng, Tỳ kheo như vậy là tốt lành đệ nhất, tinh cần khổ hạnh, tu pháp Tịch Diệt - vị Tỳ kheo ấy nghĩ - Do nhân duyên này, ta sẽ được nhiều môn đồ, đệ tử, mọi người cũng sẽ đem đến nhiều cúng dường, quần áo, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ (đồ nằm) y dược (thuốc thang), khiến cho nhiều nữ nhân kính trọng, ái niệm... Nếu có Tỳ kheoTỳ kheo ni làm những việc như vậy thì rơi vào pháp quá nhân. Lại có Tỳ kheo vì muốn kiến lập Chánh pháp vô thượng, trụ ở chỗ không nhàn, chẳng phải A la hán mà muốn khiến cho mọi người gọi là A la hán, là Tỳ kheo tốt, là Tỳ kheo thiện, là Tỳ kheo tịch tịnh, khiến cho vô lượng người sinh ra lòng tin. Do nhân duyên này, vị Tỳ kheo ấy nghĩ rằng, ta được vô lượng các Tỳ kheo lấy làm quyến thuộc. Nhân đó được dạy bảo Tỳ kheo phá giớiƯu bà tắc đều khiến cho họ trì giới. Do nhân duyên kiến lập chánh pháp này nên dương sáng đại nghĩa vô thượng của Như Lai, mở bày pháp hóa Ðại Thừa Phương Ðẳng, độ thoát tất cả vô lượng chúng sinh, khéo giải nghĩa khinh trọng, Kinh luật đã nói của Như Lai. Lại nói rằng, ta nay cũng có Phật tính, có Kinh gọi là Như Lai Bí Tạng. Ở trong Kinh đó ta sẽ nhất định được thành Phật đạo, có thể hết vô lượng ức phiền não kết, rộng vì vô lượng những Ưu bà tắc nói rằng : “Các ông đều có Phật tính hết. Ta cùng với các ông đều sẽ an trụ ở đất đạo của Như Lai, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, diệt hết vô lượng ức những phiền não kết. Người nói lời nói đó là người chẳng gọi là rơi vào pháp Quá nhân mà gọi là Bồ tát. Nếu nói rằng, có người phạm Ðột-kiết-la thì đọa vào trong địa ngục tám trăm vạn năm tính theo năm tháng ngày trên trời Ðao Lợi, chịu các tội báo, huống gì là phạm tội Thâu-lan-già ? Trong Ðại Thừa này, nếu có Tỳ kheo phạm Thâu-lan-già thì chẳng nên thân cận. Những gì gọi là tội Thâu-lan-già trong Kinh Ðại Thừa ? - Nếu có ông trưởng giả tạo lập Phật tự, đem những hoa mạn (vòng hoa cài tóc) dùng cúng dường Phật. Có vị Tỳ kheo thấy sợi tơ trong xâu hoa, chẳng hỏi liền lấy thì gọi là Thâu-lan-già, hoặc biết hay chẳng biết cũng phạm như vậy. Nếu do lòng tham mà phá hoại tháp thờ Phật thì phạm Thâu-lan-già Người như vậy chẳng nên thân cận. Nếu vua, đại thần thấy Tháp mục nát, vì muốn tu bổ cúng dường xá lợi mà ở trong tháp này hoặc được đồ trân bảo liền đem gởi cho vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo được gởi rồi liền tự tại mà dùng. Tỳ kheo như vậy gọi là bất tịnh, dấy khởi nhiều đấu tranh, hàng ưu bà tắc tốt chẳng nên gần gũi cúng dường cung kính. Tỳ kheo như vậy gọi là không căn, gọi là hai căn, gọi là bất định căn. Người bất định căn là khi muốn tham nữ thì thân tức là nữ, khi muốn tham nam thì thân tức là nam. Tỳ kheo như vậy gọi là ác căn, chẳng gọi là nam, chẳng gọi là nữ, chẳng gọi là xuất gia, chẳng gọi là tại gia. Tỳ kheo như vậy chẳng nên thân cận cúng dường cung kính. Pháp Samôn ở trong Phật pháp thì nên sinh lòng bi che chở nuôi dưỡng chúng sinh, thậm chí con kiến cũng thí cho vô úy, đó là Pháp Samôn. Xa lìa uống rượu... cho đến ngữi mùi thơm, đó là Pháp Samôn. Chẳng được nói dối, thậm chí cả trong giấc mơ chẳng nghĩ đến nói dối, đó là Pháp Samôn. Chẳng sinh ra lòng dục thậm chí cả trong mơ cũng lại như vậy, đó là Pháp Samôn.

Ngài Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có vị Tỳ kheo nằm mơ thấy hành dâm dục thì đó có phạm giới không ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Chẳng phạm vậy ! Nên đối với dâm dục phát sinh xú uế tưởng... cho đến chẳng phát sinh một ý niệm tịnh tưởng, xa lìa ái tưởng phiền não của nữ nhân. Nếu trong mơ thấy mình hành dâm thì khi thức dậy nên sinh hối hận. Khi Tỳ kheo xin ăn, nhận đồ cúng dường thì nên tưởng như là đời đói phải ăn thịt con. Nếu phát sinh dâm dục thì nên mau lìa bỏ. Pháp môn như vậy thì phải biết chính là Kinh luật của Phật đã nói. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo lời Phật dạy thì đó gọi là Bồ tát. Nếu có người nói rằng, đức Phật cho phép Tỳ kheo luôn kiễng một chân, lặng yên chẳng nói, gieo xuống vực, lao vào lửa, tự rơi từ núi cao, chẳng tránh hiểm nạn, uống độc, nhịn ăn, nằm trên đất tro, tự trói chân tay, giết hại chúng sinh, phương đạo chú thuật, con của Chiên đà la, không căn, hai căn và bất định căn, thân căn chẳng đủ... Những bọn như vậy đức Như Lai đều cho phép xuất gia làm đạo thì đó gọi là ma nói. Ðức Phật trước đã cho phép ăn năm thứ vị của trâu (?) và cả dầu, mật, mặc áo Kiều xa gia, mang giày da.v.v... Trừ ngoài những thứ đó, nếu có người nói rằng, đức Phật cho phép mặc áo Ma ha lăng già, tất cả hạt giống đều cho phép tích trữ, những hệ thuộc của cỏ cây đều có thọ mạng. Ðức Phật nói thế rồi liền vào Niết Bàn. Nếu có Kinh luật nói lời nói đó thì phải biết chính là lời nói của ma. Ta cũng chẳng cho phép luôn kiễng lên một chân. Nếu vì phép nên cho phép đi, đứng, ngồi, nằm. Ta lại cũng chẳng cho phép uống độc, nhịn ăn, năm thứ lửa nóng nướng thân, trói buộc chân tay, giết hại chúng sinh, phương đạo chú thuật, kha cụ, ngà voi dùng làm giày da, tích trữ hạt giống, cỏ cây có mạng sống, mặc Ma ha lăng già. Nếu nói rằng, đức Thế Tôn nói lời như vậy thì phải biết đó là quyến thuộc của ngoại đạo, chẳng phải là đệ tử của ta. Ta chỉ cho phép ăn năm thứ vị của trâu và dầu, mật.v.v..., cho phép mang giày da, mặc áo Kiều-xà-gia. Ta nói bốn đại không có thọ mạng. Nếu có Kinh luật nói những việc đó thì đó gọi là Phật nói. Nếu có người thuận theo lời dạy thì phải biết đó là đệ tử chân chính của ta. Nếu có người chẳng thuận theo lời dạy của Phật thì đó là quyến thuộc của ma. Nếu có người tùy thuận Kinh luật của Phật thì phải biết người đó là Ðại Bồ tát. Này thiện nam tử ! Tướng sai khác của lời ma, lời Phật, hôm nay ta đã vì ngươi rộng rãi tuyên nói, phân biệt rồi !

Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay con mới biết được tướng sai khác của lời ma, lời Phật. Nhân đó con được vào nghĩa sâu của Phật pháp.

Ðức Phật khen ngài Ca Diếp rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông có thể phân biệt hiểu rõ như vậy thì đó gọi là thông tuệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20051)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24744)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30971)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26508)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21306)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19953)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29567)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19655)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26261)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24669)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30031)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant