Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm hiện bệnh

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12895)
Phẩm hiện bệnh

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ 10

PHẨM HIỆN BỆNH

PHẦN XVIII:

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai đã khỏi tất cả bệnh tật, hoạn khổ đều trừ, không kinh sợ nữa. Thưa đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh có bốn mũi tên độc tức là nguyên nhân của bệnh. Những gì là bốn? Ðó là tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn. Nếu có nguyên nhân bệnh thì có bệnh sinh ra. Như là bệnh phổi nóng thì hơi trên thổ ra nghịch, thân thể đau đớn, tâm thần mê loạn, bệnh lị, bệnh nôn ọe, bệnh tiểu tiện ra máu, bệnh đau một bên mắt và tai, bệnh lưng, bụng trương đầy, bệnh điên cuồng khô tiêu bị quỉ mỵ bắt... đủ thứ những bệnh về thân tâm như vậy mà các đức Phật Thế Tôn đều không có nữa. Hôm nay đức Như Lai vì duyên gì mà quay gọi Văn Thù Sư Lợi bảo rằng: “Ta nay đau lưng, các ông phải vì đại chúng nói pháp!” Theo con thì có hai nhân duyên, tức là ngài không có bệnh khổ. Những gì là hai? Một là thương xót tất cả chúng sinh. Hai là ngài muốn cung cấp bố thí cho người bệnh thuốc chữa bệnh. Ðức Như Lai thuở xưa, đã ở trong vô lượng ức kiếp, tu đạo Bồ tát, thường hành ái ngữ làm lợi ích chúng sinh, chẳng khiến họ khổ não, ngài đã bố thí cho người bệnh tật đủ thứ thuốc chữa bệnh thì vì nhân duyên gì đến hôm nay tự nói rằng, có bệnh? Thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh, hoặc ngồi, hoặc nằm chẳng yên chỗ của mình, hoặc đi tìm đồ ăn thức uống, dạy bảo người nhà sửa trị sản nghiệp, còn vì sao đức Như Lai mặc nhiên mà nằm, chẳng dạy bảo những người đệ tử Thanh Văn về Thi Ba la mật, các thiền giải thoát Tam ma bạt đề, tu các chánh cần? Vì nhân duyên gì ngài chẳng nói Kinh điển Ðại Thừa thậm thâm như vậy? Vì sao đức Như Lai chẳng dùng vô lượng phương tiện dạy ngài Ðại Ca Diếp, bậc vua voi trong loài người và các bậc đại nhân.v.v... khiến cho những vị ấy chẳng thoái lui Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao đức Như Lai chẳng sửa trị các vị Tỳ kheo ác nhận nuôi tất cả vật bất tịnh. Thưa đức Thế Tôn! Quả thật ngài không có bệnh mà sao ngài mặc nhiên nghiêng hông phải mà nằm? Các Bồ tát, phàm đã cấp thí cho người bệnh thuốc chữa bệnh thì thiện căn thu được đều bố thí cho chúng sinh mà chung hồi hướng về Nhất Thiết Chủng Trí, vì trừ diệt những phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng của chúng sinh. Phiền não chướngtham dục, sân nhuế, ngu si, phẩn nộ, triền cái, tiều não (thiêu đốt, não hại), tật đố, san lận, gian trá, dua nịnh, không tàm, không quí (không tủi thẹn), mạn, mạn mạn, chẳng như mạn, tăng thượng mạn ngã mạn, tà mạn, kiêu mạn, phóng dật, cống cao, oán giận, tranh tụng, tà mạng, nịnh hót, trá hiện tướng khác, lấy lợi cầu lợi, cầu xấu, cầu nhiều, không có cung kính, chẳng theo lời dạy bảo, gần gũi bạn xấu, tham lợi không chán, trói buộc khó mở, muốn với ác dục, tham với ác tham, thân kiến, hữu kiến và cả vô kiến, luôn bày tỏ vừa lòng, ngủ ngáp chẳng vui, ham muốn ăn uống, lòng ấy tối tăm, lòng duyên vào dị tưởng, chẳng khéo tư duy, thân miệng nhiều ác, ưa thích nhiều lời, các căn ám độn, phát ngôn nhiều hư dối, thường bị sự che trùm của dục giác, sân nhuế giác và độc hại giác... Ðó gọi là phiền não chướng. Nghiệp chướng là năm tội vô gián, bệnh trọng ác. Báo chướng là sinh tại địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, bài báng chánh phápnhất xiển đề (Ðại tà kiến). Ðó gọi là báo chướng. Ba chướng như vậy gọi là đại bệnh mà các Bồ tát, ở vô lượng kiếp, khi tu Bồ Ðề đã cấp cho tất cả người bệnh tật thuốc chữa trị, thường phát nguyện này : “Xin khiến cho các chúng sinh vĩnh viễn đoạn dứt bệnh nặng ba chướng này”! Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Ðại Bồ tát khi tu Bồ Ðề cấp cho tất cả người bệnh thuốc trị bệnh thường phát nguyện này : “Nguyện khiến cho chúng sinh vĩnh viễn đoạn dứt các bệnh, được thành thân Như Lai Kim Cương”. Lại nguyên : “Vì tất cả vô lượng chúng sinh làm vua Diệu Dược, đoạn trừ tất cả những trọng bệnh ác. Nguyện cho các chúng sinh được thuốc A dà đà, nhờ dược lực này có thể trừ tất cả ác độc không lường”. Lại nguyện cho chúng sinh đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác không có thoái chuyển, mau chóng được thành tựu Phật dược Vô thượng, tiêu trừ tất cả mũi tên độc phiền não. Lại nguyện cho chúng sinh siêng tu tinh tấn, thành tựu tâm Như Lai Kim Cương làm thuốc vi diệu trị liệu mọi thứ bệnh, chẳng khiến cho có người sinh ra tranh tụng tưởng. Cũng nguyện chúng sinh làm cây thuốc lớn trị liệu tất cả những trọng bệnh ác. Lại nguyện chúng sinh nhổ ra tên độc, được thành ánh sáng Vô thượng của Như Lai. Lại nguyện cho chúng sinh được vào pháp tạng vi mật đại dược trí tuệ của Như Lai. Thưa đức Thế Tôn! Bồ tát như vậy đã ở vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp phát thệ nguyện này, khiến cho những chúng sinh đều không có các bệnh thì vì duyên cớđức Như Lai cho đến hôm nay xướng lên rằng : có bệnh. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh thì chẳng thể ngồi dậy, cúi, ngước, tiến, dừng, ăn uống chẳng ngăn, nước uống chẳng xuống, cũng lại chẳng thể dạy răn các con sửa trị gia nghiệp. Bấy giờ, cha mẹ, vợ con, anh em, thân thuộc, bạn bè đều đối với người này sinh tư tưởng ắt chết. Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai hôm nay cũng lại như vậy, nghiêng bên phải mà nằm mà không có luận nói gì thì những người ngu của cõi Diêm phù đề này sẽ nghĩ rằng, đức Như Lai Chánh Giác ắt sẽ Niết Bàn mà sinh ra diệt tận tưởng. Nhưng mà tính Như Lai thật ra chẳng rốt ráo vào Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai thường trụ không biến dị. Do nhân duyên này, chẳng nên nói rằng, ta nay đau lưng.

Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh thì thân thể hao gầy, hoặc nằm, hoặc nghiêng thì nằm xuống giường nệm. Bấy giờ lòng mọi người sinh ra khinh rẻ, khởi lên tư tưởng ắt chết. Ðức Như Lai nay cũng lại như vậy, sẽ bị sự khinh nhờn của chín mươi lăm thứ ngoại đạo và phát sinh vô thường tưởng. Những ngoại đạo kia sẽ nói rằng : “Chẳng như chúng ta do tính của ngã nên người, tự tại, thời tiết, vi trần, các pháp.v.v... là thường trụ, không có biến dị. Sự biến thiên vô thường của ông Samôn Cù Ðàm là pháp biến dị. Do nghĩa này nên, thưa đức Thế Tôn! Hôm nay ngài chẳng nên mặc nhiên nghiêng bên phải mà nằm. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh thì bốn đại tăng tổn chẳng điều hòa thích hợp hổ tương nhau, gầy yếu thiếu thốn. Vậy nên người bệnh chẳng thể tùy ý ngồi dậy, nằm xuống giường nệm. Ðức Như Lai, bốn đại không gì chẳng điều hòa thích hợp, thân lực đầy đủ cũng không gầy yếu, tổn hao, thưa đức Thế Tôn! Như sức mười con trâu nhỏ chẳng bằng sức của một con trâu lớn. Sức mười con trâu lớn chẳng bằng sức của một con trâu xanh. Sức mười con trâu xanh chẳng bằng sức một con phàm tượng. Sức mười con voi thường chẳng bằng sức một con voi hoang. Sức mười con voi hoang chẳng bằng sức của một con voi hai ngà. Sức của mười con voi hai ngà chẳng bằng sức một con voi bốn ngà. Sức mười con voi bốn ngà chẳng bằng sức một con voi trắng của núi Tuyết. Sức mười con voi trắng núi Tuyết chẳng bằng sức một con Hương tượng. Sức mười con Hương tượng chẳng bằng sức một con voi xanh. Sức mười con voi xanh chẳng bằng sức một con voi vàng. Sức mười con voi vàng chẳng bằng sức một con voi đỏ. Sức mười con voi đỏ chẳng bằng sức một con voi trắng. Sức mười con voi trắng chẳng bằng sức một con voi núi. Sức mười con voi núi chẳng bằng sức một con voi Ưu bát la. Sức mười con voi Ưu bát la chẳng bằng sức một con voi Ba đầu ma. Sức mười con voi Ba đầu ma chẳng bằng sức một con voi Câu vật đầu. Sức mười con voi Câu vật đầu chẳng bằng sức một con voi Phân đà lợi. Sức mười con voi Phân đà lợi chẳng bằng sức một lực sĩ trong loài người. Sức mười lực sĩ trong loài người chẳng bằng sức một Bát kiện đề. Sức của mười Bát kiện đề chẳng bằng sức một bát tý (cánh tay) Na la diên. Sức của mười Na la diên tám tay chẳng bằng sức một chi tiết của một Bồ tát Thập trụ. Những chi tiết trong thân của tất cả phàm phu chẳng đụng đến nhau. Ðầu chi tiết của lực sĩ trong loài người đụng đến nhau. Các chi tiết trong thân của Bát kiện đề tiếp liền nhau. Ðầu chi tiết trong thân của Na la diên móc vào nhau. Những xương đốt của Bồ tát Thập trụ như rồng cuộn bung ra liên kết nhau. Vậy nên sức ấy của Bồ tát rất lớn. Khi thế giới thành, từ cõi bờ Kim cương dấy lên tòa ngồi Kim cương lên đến dưới gốc cây Bồ Ðề Ðạo Tràng, đức Bồ tát ngồi rồi thì lòng tức thì chứng được mười lực. Ðức Như Lai hôm nay chẳng nên như đứa hài nhi trẻ nít kia. Hài nhi trẻ nít ngu si vô trí thì không gì có thể nói. Do nghĩa này nên trẻ nít tùy nằm nghiêng không người chê trách. Còn đức Như Lai Thế Tônđại trí tuệ soi sáng tất cả, con rồng lớn của loài người đầy đủ đại uy đức, thành tựu thần thông, bậc tiên nhân vô thượng đoạn trừ vĩnh viễn lưới nghi, đã nhổ bỏ mũi tên độc, tiến lùi an tường, uy nghi đầy đủ, được vô sở úy thì hôm nay ngài vì sao nghiêng hông phải mà nằm, khiến cho những người, trời sầu bi khổ não?

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp liền ở trước đức Phật mà nói kệ rằng :

Ðấng Cù Ðàm thánh đức Diệu pháp nguyện nói lên

Chẳng nên như đứa trẻ Người bệnh nằm trên giường.

Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư Nằm tựa Song Thọ gian

Phàm phu ngu hèn thấy Sẽ nói ắt Niết Bàn!

Chẳng biết điển Phương Ðẳng Sở hạnh Phật thậm thâm.

Chẳng thấy vi mật tạng Như mù chẳng thấy đường

Chỉ có các Bồ tát Như Văn Thù vân...vân..

Giải được thậm thâm đó Như người giỏi bắn tên.

Ba đời các đức Phật Ðại bi làm cội nguồn

Ðại từ bi như vậy Nay ở đâu Thế Tôn?

Nếu Ðại bi không có Thì chẳng gọi Thế Tôn (Phật)?

Niết Bàn nếu Phật quyết Thì chẳng gọi là thường.

Nguyện xin đấng Vô thượng Thượng nhận thỉnh chúng con

Chúng sinh được lợi ích Ngoại đạo bị diệt tan.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, lòng đại bi xông tỏa, biết ý niệm của mỗi một những chúng sinh, sắp muốn thuận theo sự lợi ích rốt cùng. Ðức Phật liền trở dậy ngồi kiết già, nhan mạo tươi vui như vàng lỏng tụ lại, mặt mày đoan nghiêm giống như vầng trăng tròn đầy, hình dung thanh tịnh không có những cấu bẩn, phóng ra ánh sáng lớn soi đầy khắp hư không. Ánh sáng ấy thịnh đại hơn trăm ngàn mặt trời, soi đến các giới ở phương Ðông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng phương trên, phương dưới, ban cho chúng sinh đuốc Ðại Trí khiến cho họ diệt được hết vô minh hắc ám, khiến cho trăm ngàn ức na do tha an dừng ở tâm Bồ Ðề chẳng thoái lui. Lúc bấy giờ, lòng đức Thế Tôn không tư lự nghi ngờ như vua Sư tử, ngài dùng ba mươi hai tướng của bậc Ðại Nhân, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân mình. Tất cả lỗ chân lông ở trên thân ấy mà mỗi một lỗ chân lông trổ ra một đóa hoa sen. Hoa ấy vi diệu đều đủ một ngàn cánh mà sắc thuần màu vàng ròng, thân bằng lưu ly, tua bằng Kim Cương, đài bằng ngọc mai khôi, hình dáng lớn tròn trịa giống như bánh xe. Những hoa sen đó đều phát đủ thứ màu sắc xen nhau như xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, pha lê... Những ánh sáng đó đều soi khắp đến địa ngục A Tỳ, địa ngục Tưởng, địa ngục Hắc Thằng (dây đen), địa ngục Chúng Hợp, địa ngục Khiếu Hoán (kêu la), địa ngục Ðại Khiếu Hoán, địa ngục Tiều Nhiệt (đốt nóng), địa ngục Ðại Tiều Nhiệt. Chúng sinh trong tám địa ngục ấy thường bị sự bức thiết của các khổ như là đốt cháy, nung nấu, nướng trên lửa, chặt, đâm, lột da.... Họ gặp ánh sáng ấy rồi thì mọi khổ như vậy diệt hết, không còn, yên ổn, mát mẻ, khoái lạc không cùng cực. Trong ánh sáng ấy tuyên nói tạng bí mật của Như Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi liền mạng chung sinh vào trong cõi trời, người. Cho đến tám thứ địa ngục lạnh giá (bàn băng) như là địa ngục A Ba Ba, địa ngục A Tra Tra, địa ngục A La La, địa ngục A Ta Ta, địa ngục Ưu Bát La, địa ngục Ba Ðầu Ma, địa ngục Câu Vật Ðầu, địa ngục Phân Ðà Lợi. Chúng sinh trong những địa ngục đó thường bị sự bức bách não hại của khổ lạnh, như là cắt xé thân thể nát vụn, tàn hại lẫn nhau... Họ gặp ánh sáng ấy rồi thì những khổ như vậy cũng diệt không còn, liền được điều hòa ấm áp, thích hợp với thân thể. Trong ánh sáng này cũng nói tạng bí mật của Như Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi, liền mạng chung sinh vào trong cõi người, trời. Lúc bấy giờ, ở cõi Diêm phù đề này và các thế giới khác mà có địa ngục thì đều trống không, không có người thọ tội, trừ nhất xiển đề. Ngã quỉ, súc sinh bị sự bức bách của đói khát, dùng tóc buộc thân, ở hàng trăm ngàn năm chưa từng nghe danh tự nước uống mà gặp ánh sáng ấy rồi thì đói khát liền tiêu trừ. Trong ánh sáng đó cũng nói lên tạng bí mật của Như Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi, liền mạng chung sinh vào trong cõi người, trời, khiến cho loài ngã quỉ cũng đều trống không, trừ loài quỉ bài báng chánh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Chúng sinh súc sinh giết hại lẫn nhau, tương tàn ăn thịt nhau mà gặp ánh sáng ấy rồi thì lòng sân nhuế đều diệt. Trong ánh sáng đó cũng nói lên tạng bí mật của Như Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi, liền mạng chung sinh vào trong cõi người, trời. Ðang khi ấy loài súc sinh cũng hết, trừ kẻ bài báng chánh pháp. Mỗi một hoa đó đều có một đức Phật với hào quang tròn tỏa sáng một tầm màu vàng rực rỡ, vi diệu đoan nghiêm, tối thượng vô tỷ. Thân các đức Phật đó trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Những đức Thế Tôn đó, hoặc có vị ngồi, hoặc có vị đi, hoặc có vị nằm, hoặc có vị đứng hoặc dậy tiếng sấm, hoặc tuông mưa to, hoặc phóng ra ánh chớp, hoặc quát gió lớn, hoặc phát ra khói lửa thân như đám lửa, hoặc thị hiện bảy báu, những núi, ao, suối, sông, nước, núi rừng, cây cối..., hoặc lại thị hiện bảy báu, đất nước, thành ấp, tụ lạc, cung điện, nhà cửa, hoặc lại thị hiện voi, ngựa, sư tử, cọp, sói, khổng tước (công) phượng hoàng, các loài chim..., hoặc lại thị hiện khiến cho chúng sinh sẵn có trong cõi Diêm phù đề đều thấy địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, hoặc lại thị hiện sáu trời cõi Dục. Lại có đức Thế Tôn, hoặc nói ấm, giới, các nhập có nhiều những lỗi hoạn. Hoặc lại có vị nói pháp bốn Thánh Ðế. Hoặc lại có vị nói nhân duyên của các pháp. Hoặc có vị nói các nghiệp phiền não đều do nhân duyên sinh. Hoặc có vị nói ngã cùng vô ngã. Hoặc có vị nói hai pháp khổ và vui. Hoặc lại có vị nói thường, vô thường.v.v... Hoặc lại có vị nói tịnh cùng bất tịnh. Lại có đức Thế Tôn vì các vị Bồ tát diễn nói việc tu hành sáu Ba la mật. Hoặc lại có vị nói về công đức sở đắc của các vị Ðại Bồ tát. Hoặc lại có vị nói về công đức sở đắc của những đức Phật Thế Tôn. Hoặc lại có vị nói về công đức sở đắc của người Thanh Văn. Hoặc lại có vị nói thuận theo Nhất thừa. Hoặc lại có vị nói về Tam thừa thành đạo. Hoặc có đức Thế Tôn mà hông trái tuông ra nước, hông phải phát ra lửa. Hoặc có vị thị hiện : sơ sinh, xuất gia, ngồi ở dưới gốc cây Bồ Ðề Ðạo Tràng, chuyển bánh xe diệu pháp, vào đến Niết Bàn. Hoặc có đức Thế Tôn tạo tiếng rống Sư tử khiến cho trong hội này có người được một quả, hai quả, ba quả cho đến quả thứ tư. Hoặc lại có vị nói lên vô lượng nhân duyên lìa khỏi sinh tử. Lúc bấy giờ, chúng sinh sẵn có trong cõi Diêm phù đề này gặp ánh sáng ấy rồi thì người mù thấy được hình sắc, người điếc nghe được tiếng, người câm có thể nói, người què có thể đi, người nghèo được của, người san tham có thể bố thí, người sân nhuế phát từ tâm, người chẳng tin thì tin... Như vậy thế giới không có một chúng sinh tu hành pháp ác, trừ nhất xiển đề. Lúc bấy giờ, tất cả trời, rồng, quỉ thần, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, la sát, kiền đà, ưu ma đà, a bà ma la, người, chẳng phải người.v.v... đều chung đồng thanh xướng lên rằng :

- Hay thay! Hay thay! Ðấng Vô Thượng Thiên Tôn nhiều sự lợi ích!

Nói lời đó rồi, họ nhảy nhót vui mừng, hoặc ca, hoặc múa, hoặc thân chuyển động... dùng đủ loại hoa tung lên đức Phậtchúng Tăng. Những hoa đó là hoa Thiên Ưu bát la, hoa Câu vật đầu, hoa Ba đầu ma, hoa Phân đà lợi, hoa Mạn đà la, hoa đại Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa đại Mạn thù sa, hoa Tán đà na, hoa đại Tán đà na, hoa Lô chỉ na, hoa đại Lô chỉ na, hoa Hương, hoa Ðại hương, hoa Thích ý, hoa Ðại thích ý, hoa Ái kiến, hoa Ðại ái kiến, hoa Ðoan nghiêm, hoa Ðệ nhất đoan nghiêm. Họ lại còn tung lên các thứ hương như hương trầm thủy đa dà lâu, hương hòa hợp đủ thứ Chiên đàn uất kim, hương tụ bên bờ biển (long diên hương)... Họ lại dùng tràng phan bảo cái trên trời, các kỹ nhạc nhà trời như đàn tranh, sáo, sênh, đàn sắt, đàn không hầu... tấu thổi lên để cúng dường đức Phật mà nói kệ rằng :

Con nay cúi lạy Ðại Tinh Tấn

Vô thượng Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn

Trời, người, đại chúng đều chẳng biết

Chỉ có Cù Ðàm mới hiểu thông.

Thế Tôn vì con nên thuở trước

Tu khổ hạnh nhiều kiếp không lường

Mà sao một sớm bỏ bổn thệ

Liền bỏ mạng thân vào Niết Bàn

Tất cả chúng sinh chẳng thể thấy

Bí mật tạng của Phật Thế Tôn

Do nhân duyên này khó ra khỏi

Ðường ác và sinh tử chuyển vần.

Như lời Phật nói, A la hán

Tất cả đều phải đến Niết Bàn

Hành xử Phật thậm thâm như vậy

Phàm phu ngu, ai có thể thông

Cho các chúng sinh pháp cam lộ

Vì họ đoạn trừ các não phiền

Nếu có người uống cam lộ ấy

Thì sinh, già, bịnh, chết chẳng còn.

Như Lai Thế Tôn đã trị liệu

Trăm ngàn chúng sinh nhiều không lường.

Khiến những trọng bệnh sở hữu ấy

Tất cả tiêu diệt hết, không còn.

Ðã lâu Thế Tôn xả bệnh khổ

Nên được gọi đệ thất Thế Tôn (đệ thất Phật)

Nguyện xin hôm nay mưa pháp vũ

Thấm nhuần giống công đức chúng con.

Các đại chúng và người, trời đó 

Thỉnh như vậy rồi đứng mặc nhiên.

Khi nói bài kệ này thì tất cả các đức Phật trong đài hoa sen từ cõi Diêm phù đề khắp đến cõi trời Tịnh Cư đều nghe hết. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng :

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông đã đầy đủ trí tuệ vi diệu thậm thâm như vậy thì chẳng bị sự phá hoại của những ma ngoại đạo. Này thiện nam tử! Ông đã an trụ chẳng bị sự khuynh động của tất cả những cơn gió tà ác. Này thiện nam tử! Ông đã thành tựu biện tài “lạc thuyết”, đã từng cúng dường vô lượng hằng hà sa số những đức Phật Thế Tôn đời quá khứ. Vậy nên ông có thể hỏi Như Lai Chánh Giác về cái nghĩa như vậy. Này thiện nam tử! Ta vào thuở xa xưa, vô lượng vô biên ức na do tha trăm ngàn vạn kiếp đã trừ hết bệnh căn, vĩnh viễn lìa khỏi dựa, nằm. Này Ca Diếp! Thuở quá khứ vô lượng atăngkỳ kiếp, có đức Phật ra đời, hiệu là Vô Thượng Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ngài đã vì các Thanh Văn nói Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này, khai thị, phân biệt, hiển phát nghĩa của Kinh ấy. Ta vào lúc ấy cũng vì đức Phật đó mà làm Thanh Văn, thọ trì Kinh điển Ðại Niết Bàn như vậy. Ta đọc tụng thông lợi, ghi chép thành Kinh quyển, rộng vì người khác mà khai thị, phân biệt, giải nói nghĩa của Kinh ấy, rồi đem thiện căn này hồi hướng về Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Ta từ đó đến nay chưa từng có nghiệp duyên phiền não ác đọa vào ác đạo, bài báng Chánh pháp làm nhất xiển đề, thọ thân huỳnh môn, không có căn hay hai căn, phản nghịch cha mẹ, giết A la hán, phá tháp, hoại Tăng, làm chảy máu thân Phật, phạm bốn trọng cấm... Từ đó đến nay thân tâm ta yên ổn, không có các khổ não. Này Ca Diếp! Ta nay quả thật không có tất cả bệnh tật. Sở dĩ vì sao? Vì các đức Phật Thế Tôn xa lìa tất cả bệnh lâu rồi. Này Ca Diếp! Những chúng sinh chẳng biết lời mật giáo của Ðại Thừa Phương Ðẳng liền cho là Như Lai có bệnh chân thật.

Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Laisư tử trong loài ngườiNhư Lai thì thật chẳng phải là sư tử. Lời nói như vậy tức là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai là Ðại Long trong loài người, mà ta đã ở trong vô lượng kiếp đã lìa bỏ nghiệp này. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai là người, là trời, mà ta chân thật chẳng phải là người, chẳng phải là trời, cũng chẳng phải là quỉ thần, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, chẳng phải là Ngã, chẳng phải là mạng, chẳng phải có thể nuôi dưỡng, chẳng phải sĩ phu người, chẳng phải tác, chẳng phải bất tác, chẳng phải thọ, chẳng phải chẳng thọ, chẳng phải là Thế Tôn, chẳng phải là Thanh Văn, chẳng phải nói, chẳng phải chẳng nói... Những lời nói như vậy đều là lời dạy bí mật của Như Lai.

Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai giống như vua núi Tu Di, biển cả mà Như Lai thì thật chẳng phải vị mặn, đồng với núi đá. Ông phải biết, lời nói đó cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai như hoa Phân Ðà Lợi, mà ta thật chẳng phải là hoa Phân Ðà Lợi. Lời nói như vậy tức là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai giống như cha mẹ, mà Như Lai thì thật chẳng phải là cha mẹ. Lời nói như vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai là Ðại Thuyền Sư (người lái thuyền giỏi) mà Như Lai thì thật chẳng phải là Thuyền sư. Lời nói như vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai giống như thương chủ (người chủ buôn bán), mà Như Lai thì thật chẳng phải là thương chủ. Lời nói như vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai có thể tiêu diệt, hàng phục ma, mà Như Lai thì thật khôngác tâm muốn khiến cho người khác phục. Lời nói như vậy đều là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai có thể trị ung thư, ghẻ lớn, mà ta thật chẳng phải là thầy trị ung thư, ghẻ lở. Lời nói như vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như lời nói trước đây của ta, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân giỏi có thể sửa trị nghiệp của thân, miệng, ý thì khi bỏ mạng, tuy có thân tộc thủ lấy thi hài của mình hoặc dùng lửa đốt, hoặc ném vào nước lớn, hoặc bỏ vào nghĩa địa.... chồn, sói, cầm thú tranh nhau ăn nuốt, nhưng tâm ý thức liền sinh vào đường thiện. Tâm pháp đó thật không đi, lại, cũng không chỗ đến, những là trước sau tương tợ, nối tiếp nhau, hình mạo như nhau chẳng khác. Lời nói như vậy tức là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Hôm nay ta nói bệnh cũng lại như vậy, cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Vậy nên, việc ta bảo với Văn Thù Sư Lợi, ta nay đau lưng, các ông hãy vì bốn chúng nói pháp, này Ca Diếp! Như Lai Chánh Giác thật không có bệnh, nghiêng hông phải mà nằm, cũng chẳng rốt cùng vào Niết Bàn. Này Ca Diếp! Ðại Niết Bàn này tức là Thiền định thậm thâm của chư Phật. Thiền định như vậy chẳng phải là hành xử của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Này Ca Diếp! Vấn đề ông hỏi ở trước là, vì sao đức Như Lai dựa nằm, chẳng dậy, chẳng đòi ăn uống, răn bảo gia thuộc sửa trị sản nghiệp? Này Ca Diếp! Tính của hư không cũng không ngồi dậy, tìm đòi ăn uống, dạy bảo gia thuộc sửa trị sản nghiệp, cũng không đi, lại, sinh-diệt, lão-tráng, hiện ra - mất đi, thương - phá, giải thoát - trói buộc, cũng chẳng tự nói, cũng chẳng nói người khác, cũng chẳng tự mở, cũng chẳng mở cho người khác, chẳng phải an, chẳng phải bệnh... Này thiện nam tử! Các đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, giống như hư không thì làm sao sẽ có những bệnh khổ vậy?

Này Ca Diếp! Người đời có ba bệnh khó trị, một là bài báng Ðại Thừa, hai là tội ngũ nghịch, ba là nhất xiển đề. Trong đời, ba thứ bệnh như vậy rất nặng mà chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác có thể trị liệu được. Này thiện nam tử! Ví như có thứ bệnh nhất định chết không trị được, hoặc có xem bệnh tùy ý cho thuốc trị bệnh, hoặc không xem bệnh tùy ý cho thuốc trị bệnh như vậy nhất định chẳng thể chữa trị. Ông phải biết, người đó nhất định chết, chẳng nghi ngờ gì. Này thiện nam tử! Ba thứ người này cũng lại như vậy, nếu có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát hoặc thuyết pháp, hoặc chẳng thuyết pháp thì cũng chẳng thể khiến cho những người ấy phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Ví như người bệnh, nếu có xem bệnh theo ý cho thuốc trị bệnh thì có thể khiến hết bệnh còn nếu không thì người này chẳng thể hết bệnh. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy, theo Phật, Bồ tát được nghe pháp rồi liền có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu họ chẳng nghe pháp thì chẳng thể phát tâm vậy. Này Ca Diếp! Ví như người bệnh, nếu có xem bệnh theo ý cho thuốc trị bệnh, hoặc không xem bệnh theo ý cho thuốc trị bệnh đều có thể hết bệnh. Có một thứ người cũng lại như vậy, hoặc gặp Thanh Văn hay chẳng gặp Thanh Văn, hoặc gặp Duyên Giác hay chẳng gặp Duyên Giác, hoặc gặp Bồ tát hay chẳng gặp Bồ tát, hoặc gặp Như Lai hay chẳng gặp Như Lai hoặc được nghe pháp hay chẳng được nghe pháptự nhiên được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó là có người hoặc vì tự thân, hoặc vì thân người khác, hoặc vì bố úy (kinh sợ), hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì dua nịnh, hoặc vì lừa dối người khác mà ghi chép Kinh Ðại Niết Bàn như vậy rồi thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính vì người khác diễn nói.

Này Ca Diếp! Có năm thứ người có bệnh hành xử đối với Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này mà chẳng phải là Như Lai. Những ai là năm? Một là người đoạn được ba kết sử chứng quả Tu Ðà Hoàn, chẳng còn đọa vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, trở lại cõi người, trời bảy lần rồi đoạn trừ vĩnh viễn các khổ mà vào với Niết Bàn. Này Ca Diếp! Ðó gọi là người thứ nhất có bệnh hành xử. Người này đời vị lai qua tám vạn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Người thứ hai là người đoạn dứt ba kết sử, giảm bớt tham, sân, si, chứng quả Tư Ðà Hàm, một lần trở lại cõi người, trời rồi đoạn dứt các khổ mà vào với Niết Bàn. Này Ca Diếp! Ðó gọi là người thứ hai có bệnh hành xử. Người này vào đời vị lai qua sáu vạn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Người thứ ba là người đoạn dứt năm hạ kết, chứng quả A Na Hàm, chẳng trở lại cõi này, đoạn trừ vĩnh viễn các khổ, vào với Niết Bàn. Ðó gọi là người thứ ba có bệnh hành xử. Người này vào đời vị lai, qua bốn vạn kiếp, sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Người thứ tư là người đoạn trừ vĩnh viễn tham dục, sân nhuế, ngu si, chứng quả A La Hán, phiền não không còn, vào với Niết Bàn, cũng chẳng phải là hạnh Kỳ lân độc nhất. Ðó gọi là người thứ tư có bệnh hành xử. Người này vào đời vị lai, qua hai vạn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Người thứ năm là người đoạn trừ vĩnh viễn tham dục, sân nhuế, ngu si, chứng được đạo Bích Chi Phật, phiền não không còn, vào với Niết Bàn, thật sự là hạnh Kỳ lân độc nhất. Ðó là người thứ năm có bệnh hành xử. Người này, vào đời vị lai, qua mười ngàn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Ðó gọi là người thứ năm có bệnh hành xử, chẳng phải là Như Lai vậy.

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ mười hết -

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27181)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23613)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24759)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30986)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23994)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26527)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21328)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23232)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19988)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23175)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22926)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29587)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20647)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19689)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22948)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34177)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39267)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18863)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24068)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29152)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23340)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20231)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23909)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant