Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7 Tinh tấn

05 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9727)
Chương 7 Tinh tấn


BỒ TÁT HẠNH (Bodhicaryàvatàra)
Santideva (Tịch Thiên)
Thích Trí Siêu dịch

Chương 7
Tinh tấn

1) Sau khi có được nhẫn nhục, hành giả phải trau giồi sức tinh tấn, bởi vì quả Bồ Ðề thành hay không là tùy ở tinh tấn. Không có tinh tấn thì không có công đức nào thành tựu, cũng như không có gió thì không có sự di động nào cả.

2) Thế nào là tinh tấn? Ðó là siêng năng làm các hạnh lành. Ngược lại của tinh tấn là gì? Là lười biếng, chán nản, thích tạo ác và không tin tưởng chính mình.

3) Ưa thích khoái lạc, ngủ nghỉ, hay trông cậy kẻ khác, không ý thức được đau khổ của luân hồi, đều là nguyên nhân của giải đãi, lười biếng.

4) Vô minh, tà kiến đã đưa đẩy làm ta trôi lăn trong sinh tử. Thế mà ta vẫn chưa ý thức được là mình đang sống trong miệng của tử thần!

5) Há ta không thấy những người đồng loại luân phiên nhau tắt thở sao ? Thế mà ta vẫn thờ ơ, lười biếng, chẳng khác con bò sắp sửa bị làm thịt mà không hay!

6) Tử thần luôn theo dõi rình rập ta, ngăn chặn mọi lối thoát. Thế mà ta vẫn say sưa ăn uống, ngủ nghỉ, yêu đương!

7) "Ðợi khi nào gần chết, tôi sẽ tích tụ công đức!" Nhưng đến lúc đó, dù có vùng vẫy khỏi lười biếng thì cũng quá muộn rồi!

8) "Việc này chưa làm, việc kia mới làm, việc này mới xong phân nửa", rồi bất thình lình cái chết đến, ta than rằng: "Thôi, chết tôi rồi !".

9) Khi cha mẹ, thân nhân hoàn toàn thất vọng, buồn bã vây quanh ta với những cặp mắt đỏ lệ, than khóc thì cùng lúc đó ta cũng thấy luôn các sứ giả của tử thần.

10) Dằn vặt nhớ lại những tội đã làm, tai thoảng nghe thấy tiếng địa ngục, bản thân ô uế vì nghiệp xấu, lúc đó ta sẽ làm gì ?

11) "Ôi ta chẳng khác gì cá trong rổ". Nghĩ vậy cũng đủ làm ta (kẻ tạo tội) sợ hãi ngay trong đời này, nói chi đến cảnh tra tấn địa ngục.

12) Mới đụng một chút nước nóng mà ta đã vội kêu đau, trong khi tương lai sẽ bị lửa địa ngục thiêu đốt mà ta lại có thể nhởn nhơ vui đùa được ư ?

13) Ta lười biếng mà lại muốn có phần thưởng; yếu ớt (sợ đau) mà lại thích tạo đau khổ; bị thần chết xích cổ mà lại tưởng mình trường sinh. Than ôi ! Làm sao cứu vãn?

14) Ngươi may gặp được chiếc thuyền lớn (tức thân người), hãy mau qua khỏi biển khổ ! Ôi, kẻ si, bây giờ không phải là lúc ngủ ! Chiếc thuyền này không dễ gì gặp được lần sau.

15) Ðối với giáo pháp cao thượng, nguồn gốc của hạnh phúc vô biên, sao ngươi lại thờ ơ, chạy theo lạc thú phù du, quên rằng đó là nguyên nhân dẫn đến đau khổ ?

16) Biết tự chủ, can đảm, bình đẳng xem mình và người như nhau, xả bỏ ích kỷ để làm lợi ích cho người, đó là những điều kiện của tinh tấn.

17-18) Không nên nản chí nghĩ rằng: "Làm sao ta có thể chứng quả Bồ Ðề ?". Bởi vì đấng Như Lai, không vọng ngữ đã nói rằng: "Nhờ sức tinh tấn, những chúng sinh năm xưa đã làm ruồi, muỗi, ong, trùng, đều đã thành tựu quả Bồ Ðề (rất khó được)".

19) Trong khi ta đây, may mắn được sinh làm người, biết phân biệt phải trái, nếu làm đúng theo hạnh sống của chư Bồ Tát, chẳng lẽ không chứng được quả Bồ Ðề hay sao ?

20) Thế mà ta lại run sợ khi nghĩ đến phải hy sinh bố thí tay, chân và các căn. Ðó là ta đã lầm lẫn (thiếu suy xét), không biết cái gì quan trọng và cái gì vô nghĩa.

21-22) Cái quan trọng là ta đã bị chặt, cưa, đốt sống trong vô lượng kiếp mà vẫn không đắc quả Bồ Ðề. Cái vô nghĩa là sự đau khổ nhỏ nhoi nhưng sẽ cho ra quả Bồ Ðề, tương tự như lấy dao khoét vết thương độc, tuy đau nhưng sẽ lành bịnh.

23) Ðể chữa bịnh, các y sĩ nhiều khi cũng cần mổ xẻ đau đớn. Thà đau một chút nhưng khỏi bịnh còn hơn là để bịnh nặng sau này.

24) Tuy vậy người y sĩ giỏi sẽ không cần dùng đến mổ xẻ. Bằng những phương thuốc dịu ngọt, ông ta có thể chữa lành bịnh nặng.

25) Ban đầu, bậc Y Vương sẽ dạy đệ tử bố thí đồ ăn, thức uống, sau khi thuần thục, sẽ dạy đến bố thí da thịt, thân thể.

26) Khi tâm được huấn luyện đến mức xem thân thể chẳng khác cỏ cây thì bố thí xương thịt có khó gì ?

27) Lúc đó bậc hiền giả thoát ly mọi đau khổ của thân và tâm. Bởi vì tâm khổ là do tà kiến, thân khổ do nghiệp xấu.

28) Thân an vui nhờ tạo công đức, tâm thanh tịnh nhờ trí huệ. Tuy vẫn ở trong luân hồi, vì thương chúng sinh, nhưng còn gì làm đau khổ được Bồ Tát ?

29) Tẩy trừ tội lỗi xưa, tích tụ công đức hải, nhờ sức Bồ Ðề Tâm, Bồ Tát vượt hẳn hàng Thanh Văn.

30) Nhờ cưỡi xe Bồ Ðề Tâm, không chút cản trở mệt nhọc, Bồ Tát đi từ hạnh phúc này đến hạnh phúc khác. Như vậy làm sao có thể nản chí được ?

31) Muốn thực hiện giải thoát chúng sinh, cần phải có bốn đội quân: ước nguyện, quyết chí, hoan hỷ và xả bỏ. Nhờ sợ hãi khổ đau nhớ tưởng đến an vui mà ước nguyện được tăng trưởng.

32) Muốn tăng trưởng sức tinh tấn, ta phải loại trừ những chướng ngại đối lập. Muốn có bốn đội quân trên, ta phải biết tự chủtu tập đúng đắn.

33) Ta phải tiêu trừ vô lượng tật xấu của mình và người; trong công việc này, tiêu diệt một tật xấu nhỏ thôi cũng đòi hỏi nhiều kiếp hải.

34) Trong khi đó ta chưa có được một chút nguyên tử tinh tấn nào. Trước những đau khổ vô biên, không hiểu (may sao) tim ta chưa bị nổ tung ?

35) Thêm nữa, ta phải góp nhặt vô lượng hạnh lành cho ta và cho người; thành tựu được một hạnh lành cũng phải trải qua nhiều biển kiếp.

36) Thế mà ta vẫn chưa làm được một hạnh nhỏ nào. Thật là uổng phí cho kiếp được sinh làm người.

37) Ta không biết hoan hỷ xưng tán cúng dường chư Phật, không biết hoằng truyền chánh pháp, không biết cứu giúp kẻ nghèo khó.

38) Không biết bảo vệ kẻ gặp nạn, không đem lại an vui cho người cô thế. Ta chỉ làm mẹ ta đau đớn khi có thai, chẳng khác mang một lưỡi gươm trong bụng.

39) Vì không biết hướng về Phật pháp trong quá khứ nên ngày nay ta phải chịu thiệt thòi. Hiểu như vậy, lẽ đâu lại thờ ơ với Phật pháp ?

40) Ðức Phật đã nói, (lòng thành) phát nguyện chính là cội nguồn của tất cả công đức. Phát nguyện được xuất phát từ sự quán chiếu thường xuyên về luật nhân quả.

41) Những đau khổ vật chất, tinh thần, những tai nạn hiểm nguy, chia ly với những gì thân yêu: đó là hậu quả của sự sống trong tà kiến.

42) Nhờ tạo nhiều hạnh lành, thúc đẩy bởi tâm nguyện chân chín, bất cứ lúc nào, ta cũng nhận được phần thưởng xứng đáng.

43) Nhưng nếu tạo ác thì dù có ước muốn hạnh phúc đi nữa, bất cứ nơi nào bước chân đến, ta cũng phải chịu khổ đau vì đó là hậu quả đương nhiên.

44) Hóa sanh trong những bông sen thơm ngát, thân thể óng ánh hào quang [1] được nuôi lớn dần bằng diệu âm chánh pháp, các hàng Bồ Tát nhờ tạo nhiều căn lành, sẽ xuất hiện với sắc thân thù thắng khi những cánh sen nở xòe dưới hào quang của đức Phật.

45) Ðau đớn la hét vì bị những tên cai ngục của Yama (Diêm Vương) lóc xương, cổ họng uống nước đồng sôi, da thịt bị băm chém bằng hàng trăm mũi dao nung đỏ. Cứ như thế, kẻ tạo ác không ngừng bị đọa đày trong địa ngục cháy bỏng.

46) Như vậy, chúng ta hãy phát nguyện tạo hạnh lành. Sau khi lập nguyện vững chắc, chúng ta phải trau giồi tin tưởng quyết chí, ứng hợp với Kinh Vajradhvajasutra.

47) Trước khi làm một việc gì, cần phải suy xét xem việc đó có đáng làm và ta có đủ sức hay không? Nếu thấy không đủ khả năng thì tốt hơn đừng làm, không nên làm mà bỏ dở nửa chừng.

48) Nếu bỏ nửa chừng, ta sẽ phải bắt đầu lại trong những đời sau và như thế vô tình gây thêm trở ngại, lầm lỗi. Làm việc này, bỏ dở việc kia, mất thì giờcuối cùng không xong việc nào cả.

49) Sự cương quyết tự tin cần được áp dụng vào ba điều: hành động, phiền não, năng lực. "Ta sẽ làm một mình !" đó là tự tin trong hành động.

50) Vì nô lệ cho phiền não nên chúng sinh không thể tự tìm an vui giải thoát. Do đó, chính ta sẽ làm giúp họ, vì ta không bất lực như chúng sinh.

51) Thấy kẻ khác làm việc nặng nhọc (mà ta cho là) thấp kém, sao ta lại nỡ khoanh tay ngồi yên ? Phải chăng ta cho mình quan trọng hơn kẻ khác ? Nếu vậy, tốt hơn là ta nên dẹp cái tánh ngã mạn kia đi.

52) Khi tấn công được một con thằn lằn sắp chết, con quạ kia lầm tưởng nó là chim đại bàng. Cũng vậy, nếu tâm yếu hèn thì một sự cám dỗ nhỏ cũng đủ làm ta té nhào.

53) Tại sao lại hèn nhát từ chối, không dám dấn thân trên con đường giải thoát ? Không có một trở ngại nào có thể ngăn cản được sức tinh tấn.

54) Với tâm quyết chí, tự tin ta sẽ vượt qua tất cả cạm bẫy (của cám dỗ). Bởi vì, nếu té nhào dù chỉ một lần thôi, thì lời nguyện siêu việt ba cõi hóa ra chuyện nói đùa !

55) Ta sẽ chiến thắng tất cả, không bao giờ chịu thua bất cứ cái gì. Ðây là niềm tự tin cần được tăng trưởng, bởi vì ta là con trai của Phật, bậc chiến thắng, Sư Tử Vương.

56) Những kẻ kiêu ngạo thật ra rất yếu hèn vì họ đã bị tánh tự kiêu (ngã mạn) chinh phục rồi. Những kẻ thực sự tự tin thì không bao giờ chịu khuất phục kẻ thù. Kẻ thù ở đây chính là tánh kiêu mạn.

57-58) Tánh kiêu mạn sẽ đưa đến đọa đày, khổ sở. Dù được thân người đi nữa cũng không được an vui, phải làm nô lệ, ngu si, xấu xí, vừa ăn cơm thừa lại bị hất hủi khinh chê. Ðó là số phận của những kẻ kiêu mạn ! Thế còn người hạ mình khiêm tốn thì sao ?

59) Ðó là những anh hùng tự tin, chỉ hãnh diện khi nào thắng được kẻ thù "kiêu mạn". Sau khi tiêu diệt được kiêu mạn, kẻ thù đáng sợ nhất, họ sẽ tùy ý tuyên bố với thế gian kết quả chiến thắng của họ [2].

60) Dù bị phiền não, ái dục bao vây ngàn cách, ta cũng vẫn là kẻ vô địch, như sư tử đứng giữa bầy chồn.

61) Bồ Tát không bao giờ chịu để cho phiền não chinh phục. Dù có gặp nguy hiểm cấp bách, Bồ Tát cũng quyết tự bảo vệ như người bảo vệ cặp mắt mình trong cơn bão cát.

62) Khi quyết định làm việc gì, Bồ Tát làm hăng say hết mình với tâm hoan hỷ, giống như người đánh bài nhất quyết ăn thua.

63) Giống như người thở phào nhẹ nhõm sau khi làm xong bản tường trình, Bồ Tát luôn luôn thích thú làm hạnh lành, không bao giờ thấy đủ, vì Bồ Tát tìm thấy an vui ngay trong công việc làm.

64) Thông thường người làm việc cốt để tìnm hạnh phúc, nhưng chưa chắc đã tìm được. Nhưng đối với người mà làm việc chính là hạnh phúc thì thử hỏi sao họ không ham làm việc cho được ?

65) Lạc thú trần gian, nguy hiểm như mật trên lưỡi dao mà con người lại cho là không bao giờ được thỏa mãn đầy đủ; trong khi đó đối với việc công đức (tương lai sẽ cho ra quả an vui) thì lại cho là đã góp nhặt đầy đủ. Ôi, thật ngược đời !

66) Do đó, khi xong một hạnh lành, Bồ Tát tức khắc xả bỏ quay sang việc khác, cũng như con voi, dưới sức nóng của mặt trời đứng bóng, vội vàng nhảy vào hồ nước mát.

67) Khi kiệt sức, Bồ Tát tạm ngưng để có thể tiếp tục về sau. Và khi công việc được hoàn tất, Bồ Tát liền bỏ qua một bên, sẵn sàng đón nhận việc khác.

68) Bồ Tát luôn canh chừng cẩn mật sự tấn công của phiền não để có thể phản công hữu hiệu, chẳng khác một hiệp sĩ đãu kiếm với địch thủ tài ba.

69) Trong trận, nếu bị kiếm rơi, hiệp sĩ phải nhanh tay nhặt lại (vì sợ nguy hiểm). Cũng thế, nếu Bồ Tát làm rơi kiếm chánh niệm thì phải nhặt lại tức khắc (vì nghĩ đến địa ngục).

70) Thuốc độc, một khi vào máu sẽ tràn khắp thân thể. Cũng thế, phiền não một khi gặp tà kiến sẽ tràn khắp trong tâm.

71) Người hành Bồ Tát đạo phải hết sức chú ý cũng như kẻ cầm bát dầu đầy đi vào đám đông, theo sau là những tên đao phủ sẵn sàng chém đầu nếu người kia làm đổ dầu, dù chỉ một giọt.

72) Như người thấy rắn rơi vào mình , vội vã đứng dậy hất bỏ, Bồ Tát cũng phải tức khắc phản ứng như thế đối với hôn trầm, uể oải.

73) Mỗi lần vấp ngã, Bồ Tát tự trách mình và quán chiếu sâu xa để lần sau không tái phạm.

74) Vì lý do này nên Bồ Tát luôn tìm cầu, thân cận người hiền, thiện tri thức để học hỏi cách thức tu tập giữ gìn tâm ý trong nhiều trường hợp khác nhau.

75) Ðể củng cố sức tinh tấn, trước khi làm bất cứ việc gì, Bồ Tát luôn nhớ đến phẩm "Không phóng dật" [3] và nhờ đó hành động được an vui, tự tin.

76) Cũng như bông giấy, bay đến bay đi thuận theo làn gió thổi, Bồ Tát làm tất cả hạnh thuận theo chánh niệm tinh tấn.

Chú thích:

[1] Ðây là cảnh hóa sanhCực Lạc (Bdé.ba.chen, Sukhavati) của Phật A Di Ðà.

[2] Tức thành Phậtchuyển Pháp Luân.

[3] Chương II (Appamadavagga) của Kinh Pháp Cú

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29899)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23612)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24758)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18993)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24771)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30978)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23993)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26525)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21326)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23232)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38141)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19987)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23892)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22820)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22925)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18713)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19687)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22948)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34171)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39265)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26083)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24067)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29150)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22905)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30968)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21013)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26858)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23336)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19823)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24686)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20228)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20409)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23905)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant