Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni

12 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 33438)
Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni
Tối thượng ý đà-ra-ni Kinh
Hán dịch: Đại sư Thí Hộ
Việt dịch: Sa-môn Thích Viên Đức

Như thật tôi nghe. Một thời đức Phật ngự tại Ngưu Đầu Chiên Đàn tinh xá thuộc thành Cứu Cáp cùng các vị đại Tỳ-khưu nhóm hội đầy đủ và Thiên long bát bộ cung kính vi nhiễu chiêm ngưỡng mà an trụ.

Bấy giờ đức Thế Tôn dạy A-nan-đà và các đại chúng rằng: “Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đềnày, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh, các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an ẩn. Có đà-la-ni để diệt trừ các tai nạntăng trưởng cát tường. Nay ta tuyên nói, các ông hãy lắng nghe!”

Bấy giờ A-nan-đà và các đại chúng vâng lời dạy dỗ của Phật, lẳng lặng chú ý nghe.

Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa, chừng bốn do-tuần, bỗng nơi giữa đường thấy một thần nhân đứng ở đàng xa. Thần nhân này thân cao 30 thước, mặt tròn bốn thước. Tỳ-khưu Truyền Giáo kia thấy thần nhânthân thể hùng vĩ, nét mặt sáng rực, mới thẩm xét quán sát, biết đây không phải là người tầm thường, mà chính thậtDiệu Cát Tường Đồng Tử.

Tỳ-khưu Truyền Giáo đến trước mặt thần nhân, năm vóc sát đất, nép thân lễ kính. Làm lễ xong, chắp tay chiêm ngưỡng mà bạch thần nhân rằng: “Vì sao Diệu Cát Tường Đồng Tử hiện tướng như thế? Nay con xét biết, nhất định ngài không phải là ai khác, mà là một vị thánh.”

Bấy giờ, thần nhân bảo Tỳ-khưu rằng: “Đúng như lời ông nói, ta chính là Diệu Cát Tường vậy.” Tỳ-khưu Truyền Giáo lại bạch thần nhân rằng: “Tại sao nay ngài hiện tướng này?” Bấy giờ thần nhân bảo Tỳ-khưu Truyền Giáo rằng: “Ông có biết nay cõi Nam Diêm-phù-đề sẽ có tai nạn chăng? Những chúng sinh bạc phước sẽ mắc các thứ bệnh, chịu các khổ não.”Tỳ-khưu bạch rằng: “Nay vì lý do gì cõi Nam Diêm-phù-đề bỗng nhiên có những tai nạn ấy?”

Thần nhân nói: “Nay tại mặt Nam của núi Diệu Cao có A-tu-la hưng khởi tâm ác, đem các quyến thuộc giao chiến với chư Thiên. A-tu-la che khuất mặt trời, mặt trăng và làm cho ánh sáng không còn chiếu hiện nữa. Lại có vô lượng cực ác Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la… vv, ở mặt Nam của núi Diệu Cao, thấy A-tu-la hiện tướng đó rồi cũng cùng nhau trợ giúp. Bấy giờ chư Thiên thoái bại, A-tu-la đắc thắng.Thời cõi Nam Diêm-phù-đề bỗng thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các vì sao bị che mất như vậy, các tướng bất tường xuất hiện nơi nơi, phong vũ phi thời, nắng lụt tranh nhau xuất hiện. Các ngũ cốc, lúa mạ, không thể đơm hoa kết trái. Giả sử có trái thì ăn cũng không có mùi vị, nên khiến cho oai quang sắc lực của chúng sinh đều giảm kém, gầy ốm.

Lại có các loài ác quỷ loại Tỳ-xá-xà biến làm bổn hình, hiện các dị tướng. Hoặc làm sư tử, cọp, beo, hoặc hình trạng giống chó sói, cũng lại hiện ra những tướng nữ nhơn yêu quái não loạn chúng sinh, khiến sinh các thứ bệnh, làm chúng sinh chịu mọi khổ não. Đó là: bệnh bướu cổ, bệnh phong, bệnh đàm, bệnh thổ tả, bệnh đau mắt, bệnh đau đầu, bệnh đau bụng cho đến bệnh trĩ, ban trái. Lại có các thứ bệnh rét hoặc phát bệnh một ngày hoặc cách ngày, hoặc phát giây lát hoặc suốt tháng. Hoặc bị bệnh ghẻ, ghẻ ngứa ghẻ chùm ghẻ lác, các ác tật bệnh khắp cõi Diêm-phù-đề, khiến các chúng sinh chịu rất nhiều khổ não. Những người ít phước không thể nào tránh khỏi, cho đến người giả cả, kẻ trung niên hoặc thiếu niên hoặc trẻ nhỏ do những tai chẩn này, mà phần nhiều bị chết yểu. Này Tỳ-khưu! Do xót thương về những việc này nên ta bi cảm nói ra, do đó hiện ra các tướng trạng này cảnh cáo cho mọi người biết.

Này tỳ-khưu! Ta nay bảo ông: Nếu có chúng sinh tự thân mình và các quyến thuộc cho đến tụ lạc, xóm làng, cõi nước, muốn tiêu tai họa, tăng ích phước lành, trước tiên thâm sinh kính trọng ngôi Tam Bảo, bày biện các hoa thơm, trái ngon quả ngọt, thắp hương,rưới dầu thơm, làm lễ cúng dường các thứ đầy đủ. Cần phải chí tâm một thất không ăn, ngày bốn thời, đêm bốn thời, dũng mãnh chuyên chú trì tụng Tối Thượng Ý Đà-la-ni thì tai nạn kia quyết tiêu diệt hẳn, tất cả phước lành sẽ được tăng ích.Tỳ-khưu! Nếu muốn trì tụng Tối Thượng Ý Đà-la-ni kia, trước cần phải cúi đầu xưng niệm danh hiệu: ‘Nam mô Quảng Đại Thậm Thâm Trí Huệ Chấn Hống Vương Như Lai’xong, liền tụng Đà-la-ni.”

Bấy giờ thần nhân kia vì Tỳ-khưu Truyền Giáo tuyên nói Tối Thượng Ý Đà-la-ni rằng:

Đát nễ-dã tha Vĩ bố la nga lý nhĩ đế, vĩ bố la thấp phạ lị, vĩ bố la dụ nễ thế, a la nga đế, sa hạ Nẵng mồ tát lị-phạ nễ phạ ra nỉ vĩ sắt kiếm tỳ nõa, đát tha nga đá tả. Đát nễ-dã tha hế ma, hế ma, hạ ma hế, sa hạ Nẵng mồ ngu nõa ca ra tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha Nga nga nẵng ca lị, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng kiết lị đế, sa hạ Nẵng mồra đát-nẵng na-nga đa Nẵng mồ đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Ra đát-nỗ nạp-nga đế, ra đát-nẵng tam bà phệ, sa hạ Nẵng mồ ma hạ a nhĩ đa tát-phạ di nễ, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha A ma ma hế, sa hạ Nẵng mồ ma nẵng tát-đán bà tả, đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Ma nẵng ta-đát vãm, thuật đà, bát nạp-ma sa lị, bát nạp-ma tam bà phệ ca lị hế đa ca lị duệ sa hạ Nẵng mồ tát lị-phạ một đà mạo địa tát đát nẫm Nẵng mồ A lị dã mạn tố thất-lị dã. Đát nễ-dã tha Nhạ duệ, nhạ dã la một địa, hế ma hế ma, ma hạ ma hế sa hạ Nẵng mồ a lị dã phạ lộ chỉ đế thấp phạ la tả Đát nễ-dã tha Nga nga nẵng trà duệ, nga nga nẵng vĩ ngật lăng đa, ế hế mi sa ha Nẵng mồa lị dã tam mãn đa bà nại-la tả, đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Hế bà nại-lị ma hạ bà nại-lị, a mật-lý đa bà nại-lị, vĩ nga đa, ra nhạ tế, sa hạ.Nẵng mồa lị dã phạ nhật-ra địa ba đa duệ đa dã Đát nễ-dã tha Kiết lị đế đa, tát lị-phạ nhĩ nễ tỵ a để kiết lị-đế đa, tát lị-phạ nhĩ nễ tỵ, phạ nhật-la tam bà phệ, phạ nhật-la tỵ na ca dã, sa hạ. Nẵng mồ tát lị-phạ một đà mạo địa tát đỏa nam. Đát nễ dã tha Thấp-phệ đa ca lị tỵ nhập-phạ la nễ duệ, sa hạ. Tát-đán bà nễ mô hạ nễ, bán nhạ nễ, bôn noa lị ca dạ, sa hạ. Ma hạ nan đế nan bà, nễ duệ, sa hạ. Nỗ la vĩ nỗ lị duệ, sa hạ. La vĩ hật-lị đế, sa hạ. Phiến đế, tất phệ nễ phạ, bá ni duệ, sa hạ. Lãm mô nại lý duệ, ca la bá thế, kiết lị-đế đa, sa hạ. A nha-noa nẵng, vĩ đà ma nễ duệ, sa hạ. Đà đổ, ca lị duệ, sa hạ. Mi già, ca lị duệ, sa hạ. Mạt la vãm đế duệ, sa hạ. Mạo địa-dựng nga nan đế duệ, sa hạ. Yết lị ma ta đà nễ, ca dã, sa hạ. Ê ca la ma dã, sa hạ. A dũ nga tả lị ni duệ, sa hạ. Một-la hám-mô bá ngu trà dã, sa hạ. Tát lị-phạ ca lị-ma phạ la noa tỵ tất sử khất đa dã, sa hạ. Tát lị-phạ một đà tỵ tam tắc-hật rị đa dã, sa hạ. Ê ca tất-lăng nga dã, sa hạ. A tất-lăng nga dã, sa hạ. Bộ đa dã, sa hạ. A bộ đa dã, sa hạ. Tát lị-phạ noa cụ ba, tam ma dã, sa hạ. Ma ma, tát lị-phạ nẫm tả, sa hạ.

Lúc bấy giờ thần nhân nói Tối Thượng Ý Đà-la-ni này rồi, liền dạyTỳ-khưu Truyền Giáo rằng: “Ông nay đem Đà-la-ni này vào mười phương cõi Nam Diêm-phù-đề, truyền nói nơi quốc ấp, tụ lạc, xứ xứ, khiến các chúng sinh đều được nghe biết, phải khiến cho Đà-la-ni này được rộng tuyên lưu bố. Vì cớ sao thế? Vì muốn cho chúng sinh tăng trưởng công đức vậy, có thể ban cho chúng sinh trừ các khổ não vậy, hay ở thế gian trừ các tai nạn vậy, hay khiến cho các ác quỷ thần trừ các ác tâm vậy, hay khiến cho quốc ấp, tụ lạc từ vua đến thần dân, hết thảy đều được an ẩn khoái lạc vậy.

Này Tỳ-khưu! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín, muốn dùng Đà-la-ni này cung kính, cúng dường, thọ trì, đọc tụng để dứt trừ tai nạn, tăng trưởng công đức, nên phải phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, Ở trong một thất, bày biện các hương hoa cúng dường nơi Phật tượng, và ngày ấy cúng dường bảy vị Tăng, giữa đêm ở gia đình của mình thắp đèn đuốc sáng mà trì tụng Đà-la-ni này thì sẽ được giải thoát hết thảy tai nạn.

Này Tỳ-khưu! Nếu kẻ trai lành và người gái tín hay tác pháp như thế thì tự thân mình giải thoát. Tỳ-khưu! Nếu hai thất bày biện hương hoa ẩm thực cúng dường Phật, Pháp,Tăng sẽ được bội phần hơn trước, cha mẹ của người đó sẽ được giải thoát.

Này Tỳ-khưu! Nếu ba thất bày biện hương hoa cúng dường Phật Pháp Tăng như trên, thì hết thảy nam nữ quyến thuộc của người đó đồng được giải thoát. Này Tỳ-khưu! Nếu bốn thất như thế mà tu trì thì bội bội phần hơn trước, tinh tấn tu hành không giãi đãi, thì người đó ở đâu, tất cả người dân trong tụ lạc ấy đều được giải thoát.

Này Tỳ-khưu! Nói tóm lại cho đến bảy thất bội bội tăng thù thắng cúng dường Phật Pháp Tăng như trước, thì người ấy thu hoạch công đức, từ trên đến quốc vương cho đến nhân dân thảy đều giải thoát. Này Tỳ-khưu nên biết, nay ta nói với ông rằng, các ông trì Pháp này, hãy mau chóng truyền khiến cho lưu bố ở địa phương khác. Vì sao thế? Vì pháp này hay giúp chúng sinh tiêu trừ mọi thứ khổ não, tăng trưởng các công đức vậy.

Này Tỳ-khưu! Nếu lại có người được nghe biết sự lợi ích của pháp này mà lòng không cung kính, lại không vì người khác mà rộng tuyên nói, lại tự mình không chuyên đọc tụng, Tỳ-khưu nên biết người đó có cái lỗi giấu Pháp, ngang bằng với tội ngũ nghịch. Này Tỳ-khưu! Nếu có chúng sinh được nghe Pháp này, không trái với lời dạy của ta, cúi đầu tự quy y, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính. Lại vì người khác y Pháp tu phước, lại hay lưu bố rộng lợi ích chúng sinh, Tỳ-khưu, ta liền trông biết, trước hết ta vì người này qua đến núi Diệu Cao, thẳng tới chỗ thiên nhơn, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, dùng tâm lợi ích hàng phục, khuyến dụ. Ta sẽ vì họ nói Pháp khiến cho họ được hoan hỉ, khiến nhóm thiên nhơn, A-tu-la… vv, dứt trừ lòng tranh đấu mà hãy cùng nhau cung kính. Tức là cõi Diêm-phù-đề liền dứt trừ tai nạn, không còn sinh khởi nữa. Các ác quỷ thần mỗi mỗi đều lẩn trốn, tất cả chúng sinh đều được an vui.”

Bấy giờ vị thần nhân kia nói việc đó rồi liền ẩn hình biến mất. Tỳ-khưu Truyền Giáo tuân phụng truyền nói.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn dạy các đại chúng rằng: “Diệu Cát Tường Đồng Tử kia nơi đời quá khứ dùng sức phương tiện vì các chúng sinh nói Pháp như thế. Nay ta vì các ông lại tuyên nói. Các ông nên chuyên tâm thọ trì, đọc tụng. Vào đời vị lai, rộng tuyên lưu bố để tiêu trừ tai nạn, tăng ích phước lành.”

Bấy giờ A-nan-đà và các đại chúng nghe Phật nói xong thảy đều vui mừng, chí tâm thọ trì, lễ Phậttrở về.

 

Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni
(Hết)


Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán ra Việt năm 1976
Vi tính: Nguyễn thị Diệu Minh và Nguyễn minh Hoàng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27527)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27917)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26717)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31234)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20265)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22932)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30059)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21575)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20249)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22666)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20759)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30318)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28795)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34731)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44233)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35518)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22546)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20690)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24764)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37925)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19045)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19332)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21825)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20872)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29527)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35136)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32605)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26228)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43152)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43938)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37911)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21333)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49015)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39845)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53784)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47314)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27702)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24075)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20851)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34323)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22469)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25124)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25849)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22954)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23323)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant