Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni

12 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 33439)
Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni
Tối thượng ý đà-ra-ni Kinh
Hán dịch: Đại sư Thí Hộ
Việt dịch: Sa-môn Thích Viên Đức

Như thật tôi nghe. Một thời đức Phật ngự tại Ngưu Đầu Chiên Đàn tinh xá thuộc thành Cứu Cáp cùng các vị đại Tỳ-khưu nhóm hội đầy đủ và Thiên long bát bộ cung kính vi nhiễu chiêm ngưỡng mà an trụ.

Bấy giờ đức Thế Tôn dạy A-nan-đà và các đại chúng rằng: “Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đềnày, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh, các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an ẩn. Có đà-la-ni để diệt trừ các tai nạntăng trưởng cát tường. Nay ta tuyên nói, các ông hãy lắng nghe!”

Bấy giờ A-nan-đà và các đại chúng vâng lời dạy dỗ của Phật, lẳng lặng chú ý nghe.

Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa, chừng bốn do-tuần, bỗng nơi giữa đường thấy một thần nhân đứng ở đàng xa. Thần nhân này thân cao 30 thước, mặt tròn bốn thước. Tỳ-khưu Truyền Giáo kia thấy thần nhânthân thể hùng vĩ, nét mặt sáng rực, mới thẩm xét quán sát, biết đây không phải là người tầm thường, mà chính thậtDiệu Cát Tường Đồng Tử.

Tỳ-khưu Truyền Giáo đến trước mặt thần nhân, năm vóc sát đất, nép thân lễ kính. Làm lễ xong, chắp tay chiêm ngưỡng mà bạch thần nhân rằng: “Vì sao Diệu Cát Tường Đồng Tử hiện tướng như thế? Nay con xét biết, nhất định ngài không phải là ai khác, mà là một vị thánh.”

Bấy giờ, thần nhân bảo Tỳ-khưu rằng: “Đúng như lời ông nói, ta chính là Diệu Cát Tường vậy.” Tỳ-khưu Truyền Giáo lại bạch thần nhân rằng: “Tại sao nay ngài hiện tướng này?” Bấy giờ thần nhân bảo Tỳ-khưu Truyền Giáo rằng: “Ông có biết nay cõi Nam Diêm-phù-đề sẽ có tai nạn chăng? Những chúng sinh bạc phước sẽ mắc các thứ bệnh, chịu các khổ não.”Tỳ-khưu bạch rằng: “Nay vì lý do gì cõi Nam Diêm-phù-đề bỗng nhiên có những tai nạn ấy?”

Thần nhân nói: “Nay tại mặt Nam của núi Diệu Cao có A-tu-la hưng khởi tâm ác, đem các quyến thuộc giao chiến với chư Thiên. A-tu-la che khuất mặt trời, mặt trăng và làm cho ánh sáng không còn chiếu hiện nữa. Lại có vô lượng cực ác Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la… vv, ở mặt Nam của núi Diệu Cao, thấy A-tu-la hiện tướng đó rồi cũng cùng nhau trợ giúp. Bấy giờ chư Thiên thoái bại, A-tu-la đắc thắng.Thời cõi Nam Diêm-phù-đề bỗng thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các vì sao bị che mất như vậy, các tướng bất tường xuất hiện nơi nơi, phong vũ phi thời, nắng lụt tranh nhau xuất hiện. Các ngũ cốc, lúa mạ, không thể đơm hoa kết trái. Giả sử có trái thì ăn cũng không có mùi vị, nên khiến cho oai quang sắc lực của chúng sinh đều giảm kém, gầy ốm.

Lại có các loài ác quỷ loại Tỳ-xá-xà biến làm bổn hình, hiện các dị tướng. Hoặc làm sư tử, cọp, beo, hoặc hình trạng giống chó sói, cũng lại hiện ra những tướng nữ nhơn yêu quái não loạn chúng sinh, khiến sinh các thứ bệnh, làm chúng sinh chịu mọi khổ não. Đó là: bệnh bướu cổ, bệnh phong, bệnh đàm, bệnh thổ tả, bệnh đau mắt, bệnh đau đầu, bệnh đau bụng cho đến bệnh trĩ, ban trái. Lại có các thứ bệnh rét hoặc phát bệnh một ngày hoặc cách ngày, hoặc phát giây lát hoặc suốt tháng. Hoặc bị bệnh ghẻ, ghẻ ngứa ghẻ chùm ghẻ lác, các ác tật bệnh khắp cõi Diêm-phù-đề, khiến các chúng sinh chịu rất nhiều khổ não. Những người ít phước không thể nào tránh khỏi, cho đến người giả cả, kẻ trung niên hoặc thiếu niên hoặc trẻ nhỏ do những tai chẩn này, mà phần nhiều bị chết yểu. Này Tỳ-khưu! Do xót thương về những việc này nên ta bi cảm nói ra, do đó hiện ra các tướng trạng này cảnh cáo cho mọi người biết.

Này tỳ-khưu! Ta nay bảo ông: Nếu có chúng sinh tự thân mình và các quyến thuộc cho đến tụ lạc, xóm làng, cõi nước, muốn tiêu tai họa, tăng ích phước lành, trước tiên thâm sinh kính trọng ngôi Tam Bảo, bày biện các hoa thơm, trái ngon quả ngọt, thắp hương,rưới dầu thơm, làm lễ cúng dường các thứ đầy đủ. Cần phải chí tâm một thất không ăn, ngày bốn thời, đêm bốn thời, dũng mãnh chuyên chú trì tụng Tối Thượng Ý Đà-la-ni thì tai nạn kia quyết tiêu diệt hẳn, tất cả phước lành sẽ được tăng ích.Tỳ-khưu! Nếu muốn trì tụng Tối Thượng Ý Đà-la-ni kia, trước cần phải cúi đầu xưng niệm danh hiệu: ‘Nam mô Quảng Đại Thậm Thâm Trí Huệ Chấn Hống Vương Như Lai’xong, liền tụng Đà-la-ni.”

Bấy giờ thần nhân kia vì Tỳ-khưu Truyền Giáo tuyên nói Tối Thượng Ý Đà-la-ni rằng:

Đát nễ-dã tha Vĩ bố la nga lý nhĩ đế, vĩ bố la thấp phạ lị, vĩ bố la dụ nễ thế, a la nga đế, sa hạ Nẵng mồ tát lị-phạ nễ phạ ra nỉ vĩ sắt kiếm tỳ nõa, đát tha nga đá tả. Đát nễ-dã tha hế ma, hế ma, hạ ma hế, sa hạ Nẵng mồ ngu nõa ca ra tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha Nga nga nẵng ca lị, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng kiết lị đế, sa hạ Nẵng mồra đát-nẵng na-nga đa Nẵng mồ đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Ra đát-nỗ nạp-nga đế, ra đát-nẵng tam bà phệ, sa hạ Nẵng mồ ma hạ a nhĩ đa tát-phạ di nễ, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha A ma ma hế, sa hạ Nẵng mồ ma nẵng tát-đán bà tả, đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Ma nẵng ta-đát vãm, thuật đà, bát nạp-ma sa lị, bát nạp-ma tam bà phệ ca lị hế đa ca lị duệ sa hạ Nẵng mồ tát lị-phạ một đà mạo địa tát đát nẫm Nẵng mồ A lị dã mạn tố thất-lị dã. Đát nễ-dã tha Nhạ duệ, nhạ dã la một địa, hế ma hế ma, ma hạ ma hế sa hạ Nẵng mồ a lị dã phạ lộ chỉ đế thấp phạ la tả Đát nễ-dã tha Nga nga nẵng trà duệ, nga nga nẵng vĩ ngật lăng đa, ế hế mi sa ha Nẵng mồa lị dã tam mãn đa bà nại-la tả, đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Hế bà nại-lị ma hạ bà nại-lị, a mật-lý đa bà nại-lị, vĩ nga đa, ra nhạ tế, sa hạ.Nẵng mồa lị dã phạ nhật-ra địa ba đa duệ đa dã Đát nễ-dã tha Kiết lị đế đa, tát lị-phạ nhĩ nễ tỵ a để kiết lị-đế đa, tát lị-phạ nhĩ nễ tỵ, phạ nhật-la tam bà phệ, phạ nhật-la tỵ na ca dã, sa hạ. Nẵng mồ tát lị-phạ một đà mạo địa tát đỏa nam. Đát nễ dã tha Thấp-phệ đa ca lị tỵ nhập-phạ la nễ duệ, sa hạ. Tát-đán bà nễ mô hạ nễ, bán nhạ nễ, bôn noa lị ca dạ, sa hạ. Ma hạ nan đế nan bà, nễ duệ, sa hạ. Nỗ la vĩ nỗ lị duệ, sa hạ. La vĩ hật-lị đế, sa hạ. Phiến đế, tất phệ nễ phạ, bá ni duệ, sa hạ. Lãm mô nại lý duệ, ca la bá thế, kiết lị-đế đa, sa hạ. A nha-noa nẵng, vĩ đà ma nễ duệ, sa hạ. Đà đổ, ca lị duệ, sa hạ. Mi già, ca lị duệ, sa hạ. Mạt la vãm đế duệ, sa hạ. Mạo địa-dựng nga nan đế duệ, sa hạ. Yết lị ma ta đà nễ, ca dã, sa hạ. Ê ca la ma dã, sa hạ. A dũ nga tả lị ni duệ, sa hạ. Một-la hám-mô bá ngu trà dã, sa hạ. Tát lị-phạ ca lị-ma phạ la noa tỵ tất sử khất đa dã, sa hạ. Tát lị-phạ một đà tỵ tam tắc-hật rị đa dã, sa hạ. Ê ca tất-lăng nga dã, sa hạ. A tất-lăng nga dã, sa hạ. Bộ đa dã, sa hạ. A bộ đa dã, sa hạ. Tát lị-phạ noa cụ ba, tam ma dã, sa hạ. Ma ma, tát lị-phạ nẫm tả, sa hạ.

Lúc bấy giờ thần nhân nói Tối Thượng Ý Đà-la-ni này rồi, liền dạyTỳ-khưu Truyền Giáo rằng: “Ông nay đem Đà-la-ni này vào mười phương cõi Nam Diêm-phù-đề, truyền nói nơi quốc ấp, tụ lạc, xứ xứ, khiến các chúng sinh đều được nghe biết, phải khiến cho Đà-la-ni này được rộng tuyên lưu bố. Vì cớ sao thế? Vì muốn cho chúng sinh tăng trưởng công đức vậy, có thể ban cho chúng sinh trừ các khổ não vậy, hay ở thế gian trừ các tai nạn vậy, hay khiến cho các ác quỷ thần trừ các ác tâm vậy, hay khiến cho quốc ấp, tụ lạc từ vua đến thần dân, hết thảy đều được an ẩn khoái lạc vậy.

Này Tỳ-khưu! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín, muốn dùng Đà-la-ni này cung kính, cúng dường, thọ trì, đọc tụng để dứt trừ tai nạn, tăng trưởng công đức, nên phải phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, Ở trong một thất, bày biện các hương hoa cúng dường nơi Phật tượng, và ngày ấy cúng dường bảy vị Tăng, giữa đêm ở gia đình của mình thắp đèn đuốc sáng mà trì tụng Đà-la-ni này thì sẽ được giải thoát hết thảy tai nạn.

Này Tỳ-khưu! Nếu kẻ trai lành và người gái tín hay tác pháp như thế thì tự thân mình giải thoát. Tỳ-khưu! Nếu hai thất bày biện hương hoa ẩm thực cúng dường Phật, Pháp,Tăng sẽ được bội phần hơn trước, cha mẹ của người đó sẽ được giải thoát.

Này Tỳ-khưu! Nếu ba thất bày biện hương hoa cúng dường Phật Pháp Tăng như trên, thì hết thảy nam nữ quyến thuộc của người đó đồng được giải thoát. Này Tỳ-khưu! Nếu bốn thất như thế mà tu trì thì bội bội phần hơn trước, tinh tấn tu hành không giãi đãi, thì người đó ở đâu, tất cả người dân trong tụ lạc ấy đều được giải thoát.

Này Tỳ-khưu! Nói tóm lại cho đến bảy thất bội bội tăng thù thắng cúng dường Phật Pháp Tăng như trước, thì người ấy thu hoạch công đức, từ trên đến quốc vương cho đến nhân dân thảy đều giải thoát. Này Tỳ-khưu nên biết, nay ta nói với ông rằng, các ông trì Pháp này, hãy mau chóng truyền khiến cho lưu bố ở địa phương khác. Vì sao thế? Vì pháp này hay giúp chúng sinh tiêu trừ mọi thứ khổ não, tăng trưởng các công đức vậy.

Này Tỳ-khưu! Nếu lại có người được nghe biết sự lợi ích của pháp này mà lòng không cung kính, lại không vì người khác mà rộng tuyên nói, lại tự mình không chuyên đọc tụng, Tỳ-khưu nên biết người đó có cái lỗi giấu Pháp, ngang bằng với tội ngũ nghịch. Này Tỳ-khưu! Nếu có chúng sinh được nghe Pháp này, không trái với lời dạy của ta, cúi đầu tự quy y, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính. Lại vì người khác y Pháp tu phước, lại hay lưu bố rộng lợi ích chúng sinh, Tỳ-khưu, ta liền trông biết, trước hết ta vì người này qua đến núi Diệu Cao, thẳng tới chỗ thiên nhơn, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, dùng tâm lợi ích hàng phục, khuyến dụ. Ta sẽ vì họ nói Pháp khiến cho họ được hoan hỉ, khiến nhóm thiên nhơn, A-tu-la… vv, dứt trừ lòng tranh đấu mà hãy cùng nhau cung kính. Tức là cõi Diêm-phù-đề liền dứt trừ tai nạn, không còn sinh khởi nữa. Các ác quỷ thần mỗi mỗi đều lẩn trốn, tất cả chúng sinh đều được an vui.”

Bấy giờ vị thần nhân kia nói việc đó rồi liền ẩn hình biến mất. Tỳ-khưu Truyền Giáo tuân phụng truyền nói.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn dạy các đại chúng rằng: “Diệu Cát Tường Đồng Tử kia nơi đời quá khứ dùng sức phương tiện vì các chúng sinh nói Pháp như thế. Nay ta vì các ông lại tuyên nói. Các ông nên chuyên tâm thọ trì, đọc tụng. Vào đời vị lai, rộng tuyên lưu bố để tiêu trừ tai nạn, tăng ích phước lành.”

Bấy giờ A-nan-đà và các đại chúng nghe Phật nói xong thảy đều vui mừng, chí tâm thọ trì, lễ Phậttrở về.

 

Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni
(Hết)


Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán ra Việt năm 1976
Vi tính: Nguyễn thị Diệu Minh và Nguyễn minh Hoàng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21308)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19956)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29568)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18853)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19658)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26264)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24672)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30031)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19848)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant