Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý nghĩa Phật thành đạo

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 8661)
Ý nghĩa Phật thành đạo


Ý NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO
Theo truyền thuyết Nam tông, đức Phật đản sinh, thành đạonhập Niết Bàn cùng trong một ngày, tức là ngày Rằm trăng tròn tháng Tư âm lịch. Theo truyền thuyết Bắc tông, đức Phật đản sinh vào ngày Rằm tháng Tư (trước ngày mồng 8 tháng Tư), thành đạo ngày mồng 8 tháng Chạp, và nhập Niết Bàn vào ngày Rằm tháng Hai âm lịch. Nhưng Bắc tông hay Nam tông, quan hệ và ý nghĩa Lễ Thành Đạo chỉ là một. Chí nguyện xuất gia, quá trình tầm đạo học đạo, hành khổ hạnh, hành Thiền, tu tập Thiền quán, chứng Chánh Đẳng Giác cùng là một. Quá trình ấy đều được các học phái chấp nhận, dù có những sai khác về chi tiết
 
Theo truyền thống, Thái tử đi dạo chơi bốn cửa thành, thấy một người già, một người bệnh, một người chết và một người tu sĩ xuất gia. Bốn hình ảnh được chứng kiến này làm Ngài xúc động rất mạnh. Ba hình ảnh đầu mở mắt cho Ngài thấy cảnh sinh, lão, bệnh, tử đè nặng trên kiếp sống con người. Hình ảnh thứ tư giới thiệu con đường giải thoát ra khỏi khổ đau: sanh, già, bệnh, chết. Do vậy chí nguyện xuất gia của Ngài đã được minh định rõ ràng như đã được diễn tả trong kinh Thánh Cầu sau đây:
 
“Này các Tỳ kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già , tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm... Vậy Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bì sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, hãy cầu tìm cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn” (Trung Bộ Kinh I, 163).
 
Ở nơi đây, chúng ta sẽ nhận thấy vai trò của cảm thọ (Vedanà) rất là đặc biệt trong quá trình xuất gia, tu đạothành quả của Ngài, chính vì thấy sự đau khổ của chúng sinh, và đau khổ (Dukkha) là một cảm thọ, đau khổ vì bị sanh, đau khổ vì bị già, đau khổ vì bị bệnh, đau khổ vì bị chết nên Ngài mới xuất gia tìm đạo. Cho nên đạo Phật có thể nói là một đạo bắt đầu với một cảm thọ tức là khổ thọchấm dứt cùng vớì một cảm thọ, tức là lạc thọ, giải thoát lạc, chánh gìác lạc. Ở đây chúng ta hiểu một cách toàn diện câu nói rất đặc biệt của đức Phật: “Trọn đời Ta thuyết pháp, Ta chỉ nói có hai điều: sự khổ và sự diệt khổ” (Trung Bộ I, 140).
 
Với tâm nguyện giải quyết vấn đề sanh, lão, bệnh, tử nên Thái tử xuất gia tu đạo, như được chính Ngài diễn tả trong đoạn kinh sau đây: 
 
“Rồi này các Tỳ kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dù cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc. Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, để đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng, tối thắng an tịnh, đạo lộ, hướng đến tịch tịnh...” (Trung Bộ Kinh I, trang 163).
 
Sau khi xuất gia, Thái tử đi đến học đạo với Alàra Kàlàma và Udaka Ràmaputta, và sau khi học và tu chứng quả Vô sở hữu xứPhi tưởng phi phi tưởng xứ, quả vị cao nhất mà hai vị này đạt được, Ngài suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn, diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỳ kheo, Ta không tôn kính các pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ đi” (Trung Bộ Kinh I, trang 166).
 
Tiếp đến là những năm khổ hạnh của Ngài vì trong thời bấy giờ, có nhiều vị giáo chủ tin tưởng rằng khổ hạnhcon đường đưa đến giải thoát; có hành hạ thân xác, có cảm thọ khổ đau mới hy vọng giải thoát giác ngộ.
 
Trong Đại kinh Saccaka, vị Bồ-tát tu tập nghiến răng, dấu chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Rồi Ngài tu tập Chỉ tức Thiền (tức là Thiền nín thở), chịu những khổ đau kinh khủng, khi thì bị tiếng gió động kinh khủng thổi ngang qua lỗ tai như tiếng ống bệ, khi thì bị ngọn gió kinh khủng thổi ngang qua đầu, khi thì bị đau đầu một cách kinh khủng, khi thì bị một sức nóng kinh khủng, thiêu đốt. Đức Phật tường thuật lại đời sống tu khổ hạnh:
 
“Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen, hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cay leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phơi bày của Ta giống như một chuỗi trái bóng; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một sàn nhà hư nát; vì Ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt giống như ánh nước long lanh nằm sâu trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu của Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng đắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ da bụng” thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống” thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống”. 
 (Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 245).
 
Hiện nay ở các chùa Việt Nam có thờ tượng Phật gọi là tượng Tuyết Sơn hay tượng Phật tu khổ hạnh, chỉ còn da bọc lấy xương, như chúng ta được thấy ở chùa Bút Tháp.
 
Điều quan hệ ở nơi đây là những bài học, những kinh nghiệm, vị Bồ-tát đã rút tỉa ra được, khi tự mình tu khổ hạnh như vậy: “Này Aggivessana, dù Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dù cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy”. Rồi vị Bồ-tát nghĩ đến lúc còn nhỏ khi vua cha đang dự lễ cày cấy, và Thái tử được đặt ngồi dưới một gốc cây, Thái tử nhập sơ Thiền: “Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ”. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?”. Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng, lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp?”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp”. (Đại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 246-Bồ-tát).
 
Vị Bồ-tát nói lên kinh nghiệm riêng của Ngài về vấn đề Thiền như sau:
 
“Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực, và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại, nhưng Ta không chi phối tâm Ta”. (Trung Bộ Kinh I, trang 247).
 
Ở đây, thế giới hành Thiền là một thế giới cảm thọ, cảm thọ sơ Thiền đưa đến hỷ lạc là một cảm thọ này do sống viễn ly đưa đến. Thiền thứ hai cũng là một cảm thọ, cảm thọ hỷ lạc, nhưng hỷ lạc này do định sanh. Thiền thứ ba cũng là một cảm thọ. Xả niệm lạc trú, không còn hỷ, chỉ có thuần túy lạc thọ. Và Thiền thứ tư cũng là một cảm thọ, xả niệm thanh tịnh, lạc cũng không còn, và được xả thay thế và xả cũng là một cảm thọ
 
Khi đã nhận thức được con đường phái đi, vị Bồ-tát đi tới Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), thấy một địa điểm khả ái một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, có một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn. “Và này các Tỳ kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tấn””. Chỗ ngồi mà vị Bồ-tát lựa chọndưới gốc cây Bồ đềBồ đề Đạo tràng, và con sông kế cận là con sông Neranjara (Ni-liên-thiền). Theo truyền thống Nam tông, đêm ấy Ngài thành đạo chứng quả Bồ đề, và sau khi thành đạo, Ngài ở lại chung quanh cây Bồ đề đến 49 ngày. Theo truyền thống Bắc tông, sau khi Ngài đến cây Bồ đề, ở lại 49 ngày rồi mới chứng quả. Đó là những sai khác về học phái chưa được giải thích tường tận. Điều quan hệ là Ngài đã thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, sau khi thực hiện quá trình thành đạo: xuất gia, học đạo, tu khổ hạnh, hành Thiền, tuệ quánchứng quả Chánh Đẳng Giác.
 
Con đường đức Phật tự mình tu hành chứng quả và giảng dạy lại cho các đệ tửcon đường Giới, Định, Tuệ. Giới là một nếp sống lành mạnh, xa rời các dục, các bất thiện pháp, như đã được diễn tả trong nhiều kinh điển. Thứ hai là Định, tức là Thiền định, phương pháp tập trung nội tâm trên những đối tượng lựa chọn để đoạn trừ năm triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi và thay thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Các Thiền chi này được giảm dần cho đến Thiền thứ tư, chỉ có xả và nhất tâm. Tới đây chấm dứt giai đoạn Thiền định thứ hai và mở đầu giai đoạn thứ ba tức là giai đoạn trí tuệ.
 
Chính xả và nhất tâm, tức là Thiền thứ tư đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình giác ngộ của vị tu sĩ Một mặt, Thiền thứ tư là vị trí người hành giả, có đủ nội lực, nghị lực để đối trị ác ma, đối trị sức mạnh của dục. Thiền thứ tư với xả và nhất tâm đạt được địa vị cao nhất của Thiền sắc giới, Thiền này chấm dứt giai đoạn Giới (Sìla) và Định (Samàdhi) và mở đường cho giai đoạn thứ ba tức là Tuệ (panna). Thiền này chấm dứt Samatha (Chỉ) và mở đầu cho Vipassanà (Quán). Nói một cách khác, phải với định lực của Thiền thứ tư là xả và nhất tâm, người hành giả mới có sức mạnh để Thiền quánhiệu quả và tiến dần đến đích giác ngộ, giải thoát. Tiến trình giải thoát, giác ngộ của đức Phật dược diễn tả như sau:
 
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy. Ta dẫn tâm đến Túc mạng minh...
 
Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là đệ nhất minh Ta đã chứng được trong đêm canh một. Vô minh diệt thì minh sanh, ám diệt thì ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 
 
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sinh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhãn, thấy sự sống và chết của chúng sinh . . . Này Aggivessana, đó là đệ nhị minh Ta đã chứng được trong đêm canh hai, vô minh diệt, minh sanh; ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 
 
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí Ta biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của Khổ”, biết như thật “Đây là Khổ diệt”, biết như thật “Đây là con đường đưa đến Khổ diệt”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Ta đã biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này Aggivessana, đó là đệ tam minh Ta đã chứng trong canh ba, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
 
Có một con đường làm nổi bật vai trò các cảm thọ trong quá trình giải thoát và giác ngộ, vì trong phương pháp này, chúng ta thấy rõ sự đóng góp vô cùng quan trọng của cảm thọ.
 
Vị hành giả, cùng với xả và nhất tâm của Thiền thứ tư, thanh tịnh trong sáng như vậy, không tập trung vào bốn Không định vì là những pháp hữu vi, còn bị sanh diệt; cũng không suy tưởng đến Hữu hay Phi hữu, nên không có chấp thủ mọi sự vật gì ở đời. Không chấp thủ nên không sợ hãi tháo động. Do không sợ hãi tháo động, vị hành giả chứng Niết Bàn, tự biết mình đã chứng quả A-la-hán: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”. Khi vị ấy cảm thọ lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết cảm thọ ấy là vô thường, không nên đắm trước, không phải là đối tượng để hoan hỷ. Vị ấy biết không có hệ phược, vị ấy cảm giác các thọ ấy. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu hay lấy sinh mạng làm tối hậu, vị ấy biết vị ấy cảm giác một cảm thọ, lấy thân làm tối hậu hay lấy sanh mạng làm tối hậu. Vị ấy biết sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành thanh lương. Do vậy vị hành giả thành tựu được bốn Thắng xứ tối thắng (Ariya adhitthàni): Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ thắng xứ (Pannà) nghĩa là trí biết sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của vị này an trú vào Chân đến (Sacca) không bị dao động, không thể đưa đến hư vọng, thuộc về Chân đế, Niết Bàn. Vị hành giả thành tựu Tối thắng đế thắng xứ (Saccadhitthànà), tức là Niết Bàn không có thể dựa trên hư vọng. Mọi sanh y vô trí thức của vị ấy được đoạn tận gốc rễ, không có thể tái sanh. Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ (Càgàditthànà), tức là sự xả ly tất cả sanh y. Các tham ái, thuộc tham dục; phẫn nộ thuộc sân hận; vô minh thuộc si mê, không có thể hiện hữu trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Vị ấy thành tựu được tối thắng, tịch tĩnh thắng xứ (Upasamàditthànà). Những vọng tưởng: “Tôi là, tôi là cái này, tôi không là cái này, tôi sẽ không là cái này. Tôi sẽ có sắc, có tưởng”. Những vọng tưởng ấy là bệnh, là cục bướu, là mũi tên, vị hành giả vượt khỏi các vọng tưởng và được gọi là vị ẩn sĩ tịch tịnh tức là vị ẩn sĩ không sanh, không già, không có dao động, không có hy cầu. Không sanh làm sao già được, không già làm sao chết được, không chết làm sao dao động được. Không dao động làm sao hy cầu. Cho nên vị ấy đạt được tịch tĩnh. Ở đây chúng ta nhận thấy vị hành giả khi giác ngộ giải thoát không phải thụ động, không phải đoạn diệt, không phải trở thành vô tri giác như thường bị hiểu lầm, nhưng là một trạng thái rất sinh động, rất phấn khởi với cả bốn tối thắng Thánh thắng xứ (Ariyàdhitthànàni): trí tuệ, chân đế, tuệ xả, tịch tịnh, tác động rất mạnh mẽ. Đến đây sự đau khổ được chấm dứt hoàn toàn, mọi cảm thọ trở thành thanh lương, tịch tịnh, không có sanh, lão, bệnh, tử, không còn khổ vì sanh, khổ bệnh, khổ vì già, khổ vì chết. Vị ấy thật sự giác ngộ giải thoát. Vị ấy đã thành đạo
 
Quá trình giác ngộ giải thoát của đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng như sự giác ngộ, giải thoát của các vị A-la-hán, đã được thể hiện trọn vẹn trong ngày thành đạo của Ngài. Từ nơi sự thành đạo của Ngài, chúng ta rút tỉa được một số kinh nghiệmhiểu biết như sau:
 
1. Quá trình giác ngộ, giải thoát của đức Phật là một quá trình tu tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của con người hiện tại, không có thần linh, không có bùa pháp, không có cứu rỗi.
 
Trong quá trình này các cảm thọ đóng một vai trò chủ yếu vô cùng quan trọng. Chính khổ thọ khiến Ngài xuất gia; chính khổ thọ khiến Ngài từ bỏ khổ hạnh; chính lạc thọ khiến Ngài hành Thiền; chính xả thọ là chân đứng để Ngài giác ngộ giải thoát, thành đạo.
 
2. Pháp môn đưa đến giác ngộ, giải thoát là Giới, Định, Tuệ, nghĩa là phải sống một nếp sống tốt lành trong sạch, dựa trên nếp sống ấy, tập trung tâm tư vào những đối tượng có lựa chọn để phát triển nội lực định tâm, và với xả và nhất tâm trong sáng của Thiền thứ tư, bước vào Thiền quán, nhìn cái nhìn như thật với trí tuệ, và lấy trí như thật ấy đoạn tận các lậu hoặc để được giác ngộ giải thoát.
 
3. Đức Phật là một người như chúng ta, sanh ra là một người, sống như một người và từ giã cõi đời như một người, nhưng là một người vì sự đau khổ của chúng sinhxuất gia tu đạo, một con người có đủ nghị lực kiên trì can đảm, để chiến thắng mọi trở ngại cuối cùng tìm ra được con đường diệt khổ cứu độ chúng sinh.
 
Ngày Thành Đạo của Ngài nói lên sự thành công cao cả của con người đã biết nâng cao phẩm giác tuyệt vời của con người, có khả năng giác ngộ và đã thành tựu sự giác ngộ một cách trọn vẹn dưới gốc cây Bồ đề.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19862)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30503)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36430)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33235)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35572)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20991)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25800)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31267)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23775)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28945)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20869)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25552)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22527)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23288)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25753)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23726)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40616)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22101)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16971)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24317)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41110)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18997)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27730)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38129)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34080)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36790)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24005)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29199)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68750)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24539)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26371)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46443)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53587)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25583)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29271)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant