Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 1
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Thượng)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Chương 18: Sáu Loại Khổ
(b) Suy ngẫm về sáu loại khổ
(i) Khuyết điểm về tính không chắc chắn
(ii) Khuyết điểm về tính không thể toại nguyện được
(iii) Khuyết điểm về việc phải bỏ thân thể lặp đi lặp lại
(iv) Khuyết điểm về việc phải tái sinh lặp đi lặp lại
(v) Khuyết điểm của việc phải giáng hạ xuống thấp lặp đi
lặp lại
(vi) Khuyết điểm của việc không có bạn đồng hành
–––\–––
(b) Suy ngẫm về sáu
loại khổ
“Bằng Hữu Thư Thích” [của ngài Mahâmati
{tên dịch nghĩa: Đại Trí}] nói có bảy loại khổ, nhưng bởi vì cái khổ thứ bảy
chỉ khẳng định lại mỗi sai sót một lần nữa nên ở đây quý vị suy ngẫm sáu loại
thôi.
(i) Khuyết điểm về tính
không chắc chắn
Trong khi quý vị trôi lăn trong sinh tử luân hồi, những
thân quyến như cha mẹ trở thành kẻ thù trong những đời khác, trong khi kẻ thù
trở thành thân quyến. Tương tự, cha quý vị trở thành con trai của quý vị và con
trai trở thành cha; mẹ quý vị trở thành vợ quý vị và vợ thành mẹ. Bởi vì không
có gì khác ngoài một chuỗi liên tục các thay đổi như vậy nên quý vị không thể
nương cậy vào đâu được. Trong Bằng Hữu
Thư:[1]
Không có gì chắc chắn cho những ai còn trong luân hồi
Bởi vì cha thành con, mẹ thành vợ,
Kẻ thù thành bạn,
Và điều ngược lại cũng xảy ra.
Ngay trong đời này, kẻ thù trở thành bạn và ngược lại. Đồng Tử Vấn Mật Điển nói:[2]
Trong một thời gian ngắn, kẻ thù có thể thành bạn
Và bạn có thể thành kẻ thù.
Cũng vậy, cả bạn lẫn thù đều có thể thành kẻ bàng quan,
Trong khi những người trước đây bàng quan có thể thành kẻ
thù
Hoặc bạn thân thiết.
Biết được điều này, kẻ trí chẳng kết dây luyến ái.
Họ từ bỏ ý nghĩ vui thích với bạn bè
Và hài lòng tập trung vào đức hạnh.
Bằng cách thiền quán về điều này, quý vị nên ngăn chặn
không để cho luyến ái và thù nghịch phát khởi từ việc phân biệt bạn và thù. Hãy
ý thức rằng trong các hiện tượng của luân hồi, tuyệt đối không thể tin được
điều gì. Đừng để mình bị mê hoặc nữa.
(ii) Khuyết điểm về
tính không thể toại nguyện được
Bằng Hữu Thư dạy:[3]
Mỗi người trong chúng ta đã uống sữa
Nhiều hơn là số lượng có thể chứa đầy bốn biển; vậy nhưng
Những ai trong dòng luân hồi hành động như kẻ phàm phu[4]
Lại có ý định uống nhiều hơn số lượng đó nữa.
Suy nghĩ về điều này: mỗi chúng sinh trong quá khứ đã uống
rất nhiều sữa mẹ, và tuy thế – lại không chịu tu tập đạo giải thoát – trong
tương lai sẽ lại uống thêm nhiều như vậy. Đây chỉ là một thí dụ mà thôi. Khi
quý vị suy ngẫm về việc quý vị đã chẳng thiếu gì những kinh nghiệm về những
điều kỳ thú và những khổ ải của sinh tử luân hồi, quý vị không nên để cho mình
bị mê hoặc nữa. Quý vị chìm đắm vào hưởng lạc để tìm sự thỏa mãn, tuy nhiên,
với các hưởng lạc thế gian, cho dù quý vị hưởng thụ bao nhiêu chăng nữa, quý vị
cũng không bao giờ thỏa mãn. Do đó, hết lần này đến lần khác sự ham muốn của
quý vị tăng thêm, và vì lý do đó, quý vị lang thang bao nhiêu đời kiếp trong
sinh tử luân hồi. Trong khoảng thời gian dài vô lượng quý vị sẽ trải qua khổ
đau không thể chịu đựng nổi, khổ đau mà những dục lạc kia sẽ không đền bù được
trong muôn một. Trong Bằng Hữu Thư:[5]
Giống như người cùi bị giòi bọ hành hạ
Lại gần lửa để giảm đau
Nhưng chẳng được bình yên, nên ngươi phải hiểu thấy
Tham luyến thú vui nhục dục cũng đều như vậy.
Ba-la-mật-đa Tập
Luận cũng nói:[6]
Ngươi được cái ngươi muốn,
Dùng cho hết, rồi lại kiếm thêm,
Và ngươi vẫn không thỏa mãn,
Còn có gì bệnh hoạn hơn vậy không?
Và Đệ Tử Thư của
ngài Nguyệt Quan nói:[7]
Có chúng sinh nào chưa từng sinh ra đời hàng trăm lần?
Có hưởng thụ nào đã không trải nghiệm vô số lần?
Có thứ xa hoa nào, như quạt bằng đuôi yak[8] màu
trắng tuyệt vời, mà họ lại chưa có?
Tuy vậy, ngay cả khi họ có, tâm luyến ái vẫn tiếp tục tăng
trưởng.
Chẳng có khổ đau nào họ không nhiều lần trải qua.
Những thứ họ ham muốn không làm họ thỏa mãn.
Không có chúng sinh nào chưa từng ngủ trong bụng họ.
Vậy tại sao họ không từ bỏ được tham luyến luân hồi?
Hãy suy nghĩ về điều này.
Hơn nữa, quý vị sẽ thật tỉnh mộng [đối với luân hồi] nếu
quý vị quán chiếu về điều Phiền Não Giảm
Khinh (Śoka-vinodana) nêu lên:[9]
Hết lần này tới lần khác trong các địa ngục
Ngươi đã uống nước đồng sôi –
Nhiều đến nỗi ngay cả nước trong đại dương
Cũng không thể so sánh được. [223]
Đồ dơ bẩn mà ngươi đã ăn
Khi làm chó hoặc làm heo
Chất thành đống rộng lớn hơn cả
Núi Tu-di, vua của các núi.
Vì mất người thương và bè bạn
Ngươi đã nhỏ biết bao nhiêu lệ
Trong các cõi sinh tử luân hồi
Đến nỗi đại dương không chứa hết.
Đầu bị cắt
Khi đánh giết lẫn nhau,
Nếu chất thành đống
Sẽ cao hơn cõi trời Phạm Thiên.
Ngươi đã từng làm con sâu
Và, vì tham ăn, ngươi đã ăn chất bầy nhầy cáu bợn nhiều đến
nỗi
Nếu đem đổ vào đại dương
sẽ làm đầy ắp biển cả.
Do đó, Phẩm Hoa
Nghiêm nêu lên:[10]
Hãy nhớ những thân nhiều vô số trong quá khứ,
Mà ngươi, vì tham dục, đã bỏ phí một cách vô nghĩa;
Bây giờ trong đời này hãy thực sự mưu cầu giác ngộ;
Hãy hành xử theo giới luật và nhờ đó diệt trừ tham dục.
Hãy nhớ những thân nhiều vô số trong quá khứ,
Mà ngươi, vì tham dục, đã bỏ phí một cách vô nghĩa lý.
Đã bao lần nhiều như số cát sông Hằng
Ngươi đã không làm hoan hỉ chư Phật và lơ là giáo pháp của
các ngài như pháp này đây.
Ngay cả khi quý vị có được những thứ kỳ thú lớn lao của
kiếp sống luân hồi, chúng sẽ là huyễn ảo. Hãy ghi khắc trong tâm những thân
nhiều vô số mà quý vị đã bỏ phí trong quá khứ, phải trải qua vô lượng đau khổ
mà không có ý nghĩa gì cả. Hãy suy xét rằng mọi việc sẽ tiếp tục như vậy trừ
khi quý vị nỗ lực tìm cách chấm dứt chúng. Hãy phát khởi một ý thức tỉnh thức,
không để mình bị mê hoặc. Jen-nga-wa nói:
Các vị thầy tôn kính, từ vô thỉ tới nay các ngài đã có bao
nhiêu thân? Giờ đây, bởi vì các ngài chưa bao giờ thực hành giáo pháp Đại Thừa,
các ngài phải chuyên cần tu tập.
Sang-pu-wa (gSang-phu-ba) nói:
Trong dòng sinh tử luân hồi này có rất nhiều khúc quanh rủi
may; đừng đặt hy vọng ở nơi đó.
Hãy quán chiếu cho tới khi quý vị phát khởi được cách suy
nghĩ như vậy; sau khi đã phát triển được suy nghĩ này, quý vị phải tiếp tục duy
trì nó trong thiền quán.
(iii) Khuyết điểm về
việc phải bỏ thân thể lặp đi lặp lại
Trong Bằng Hữu Thư: [11]
Mỗi người chúng ta đã bỏ lại đống xương
Sẽ làm núi Tu-di trông bé nhỏ. [224]
Nếu xương mỗi chúng sinh bỏ đi khi lấy thân mới không mất
đi thì số xương này sẽ che khuất cả núi Tu-di.
(iv) Khuyết điểm về
việc phải tái sinh lặp đi lặp lại
Trong Bằng Hữu Thư:[12]
Nếu ngươi tìm kiếm hạn lượng của các bà mẹ bằng cách đếm
các hạt bụi đất
Kích thước bằng hột cây bách xù thì trái đất này cũng không
đủ.
Những học giả trước đây coi câu trên có nghĩa là mỗi một
viên bụi đất đại diện cho một chúng sinh đã từng là mẹ của ta, nhưng giải thích
này không đúng. Lời “Bằng Hữu Thư Thích”[13]
trích dẫn một bài kinh cho thấy rằng câu trên nhắc đến tổ tiên bên họ mẹ, từ mẹ
tới mẹ của mẹ mình, và cứ tiếp tục như vậy:
Này các thầy tì kheo, tỉ dụ như nếu có người lấy từ trái
đất rộng lớn này những viên bụi đất kích thước bằng hột bách xù rồi để sang một
bên, và nói rằng: “Đây là mẹ ta, và đây là mẹ của mẹ ta”; này các thầy tì kheo,
đất của trái đất rộng lớn này sẽ hết đi, nhưng dòng tổ tiên bên mẹ vẫn chưa
hết.
Lại nữa, cách hiểu của các học giả khi trước là sai lầm vì
luận thích của ngài Long Thọ nói “hạn lượng của các bà mẹ”.
Quý vị nên hiểu phương cách mà điều này khiến quý vị tỉnh
ngộ. Tứ Bách Kệ Tụng nói:[14]
Ngươi không thể thấy nguyên nhân tiên khởi
Của ngay cả một kết quả thôi;
Những nguyên nhân của một kết quả thôi cũng bao la biết
chừng nào,
Thấy vậy, ai lại không kinh sợ?
Về điểm này luận của ngài Nguyệt Xứng nói:[15]
Thật đúng để nuôi dưỡng một ý thức tỉnh ngộ không nguôi, và
cách hành xử tương xứng khi trực diện với chốn hoang dã mênh mông này – dòng
luân hồi – nơi sự đi lại vốn khó khăn vì rừng rậm vô minh mà tầm mức của nó
không thể đo lường được.
(v) Khuyết điểm của
việc phải bị giáng hạ tái lặp
Tác phẩm Bằng Hữu Thư: [16]
Đã làm Trời Đế Thích, xứng đáng để thế gian tôn kính, ngươi
vẫn sẽ rơi
Một lần nữa xuống trái đất vì nghiệp lực trong quá khứ.
Ngay cả khi đã làm một vị Chuyển Luân Vương,
Ngươi sẽ một lần nữa thành nô lệ của các chúng sinh khác
trong dòng luân hồi.
Cho dù lâu nay ngươi trải qua các lạc thú
Vuốt ve ngực và eo của các thiên nữ siêu phàm
Ngươi sẽ lần nữa gặp những cảm xúc không hề chịu được [225]
Vì bị xay nghiền, cắt chém, và xé thịt bởi các vật tra tấn
ở địa ngục.
Đã bao lâu ngự trên đỉnh núi Tu-di,
Hưởng thụ cảm xúc êm ái của đất mềm mại dưới chân,
Hãy tưởng đến nỗi đau đớn không chịu nổi
Vì phải lần nữa bước đi trên than nóng và tử thi xé nát
dưới địa ngục.
Đã từng nô đùa trong những lùm cây xinh đẹp
Và hưởng thụ vòng tay ôm ấp của các thiên nữ siêu phàm,
Ngươi sẽ lần nữa tới các khu rừng địa ngục,
Nơi ấy, lá là gươm đao xẻ đứt tai, mũi, tay chân.
Dù ngươi đã vào đến Diệu Lưu Hà [Sông Chảy Diệu Dàng]
Với những nữ thần xinh đẹp và hoa sen vàng,
Ngươi lại lần nữa lao xuống địa ngục vào trong nước bỏng –
Loại nước không chịu nổi của Bất Khả Quá Giang [Dòng Sông
Không Thể Đi Qua Được].
Đã hưởng các lạc thú lớn của một vị trời
Trong cõi dục, hoặc hạnh phúc không tham luyến của Trời
Phạm Thiên,[17]
Một lần nữa ngươi lại làm nhiên liệu cho lửa
Của Địa Ngục Vô Gián, chịu đau đớn không ngừng nghỉ.
Đã là thần mặt trời hoặc mặt trăng,
Soi sáng toàn vũ trụ bằng ánh sáng thân mình,
Một lần nữa ngươi sẽ trở về bóng tối đen, dầy đặc,
Nơi ngươi không thể nhìn thấy ngay cả bàn tay xòe ra.
Ba dụng cụ để xay nghiền, cắt chém, và xé thịt là những
dụng cụ lần lượt của các địa ngục Chúng Hợp, Hắc Thằng, và Đại Nhiệt. Được các
thiên nữ chăm sóc có nghĩa là được các nữ thần phục vụ. Các “lạc thú của chư
thần trong cõi dục” là để chỉ các vị thần trong cõi dục từ tầng Trời Thứ Ba
Mươi Ba trở lên. Ở đây ánh sáng của mặt trời và mặt trăng được diễn tả bằng
những từ ngữ quen thuộc với người thường mà không phân biệt vật hỗ trợ – cung
điện của vị thần – và nhân vật được hỗ trợ – vị thần; nếu quý vị phân biệt
những thứ này thì ánh sáng là ánh sáng từ các cung điện của mặt trời và mặt
trăng.
Xem xét mọi cách mà quý vị có thể rớt từ chỗ cao xuống chỗ
thấp – như được minh họa bằng những thí dụ này – quý vị sẽ không còn say mê
sinh tử luân hồi nữa, bởi vì tất cả những điều kỳ thú của dòng luân hồi cuối
cùng sẽ đều sụp đổ. Như Cơ Sở Giới Luật
nêu lên:[18]
Kết cuộc của những thứ {thiện nghiệp} đã tích lũy được là
sự cạn kiệt.
Kết cuộc của những thứ trên cao là rơi rớt xuống.
Kết cuộc của gặp gỡ là chia lìa.
Kết cuộc của cuộc sống là cái chết.
(vi) Khuyết điểm của việc không có đạo hữu
Trong Bằng Hữu Thư:[19]
Bằng cách này, ngươi sẽ bị sầu khổ.
Cho nên hãy lấy ánh sáng của ngọn đèn ba công đức;
Bằng không ngươi sẽ lẽ loi đi vào bóng tối vô tận
Mà cả mặt trời lẫn mặt trăng đều không thể chiếu soi.
“Ngươi sẽ bị sầu
khổ” có nghĩa là “Hãy biết rằng quý vị phải chết như ta đã chỉ cho quý vị thấy
khi trước, và lấy ánh sáng công đức”. “Ba loại công đức” chỉ công đức của thân,
khẩu hoặc ý, hoặc chỉ ba nền tảng mà từ đó công đức phát sinh – bố thí, v.v....
“Bóng tối vô tận” chỉ bóng tối của vô minh.
Bàn về việc không có bạn đồng hành, Nhập Bồ-đề Hành Luận nói:[20]
Thân thể này hiện tại đầy đủ, tuy nhiên
Thịt xương đi với thân này
Sẽ chia lìa và tan rã.
Bởi thân này như vậy,
Còn đề cập những điều khác, như những người thân yêu làm
gì?
Do đó, sáu khuyết điểm này bao gồm ba loại:
1) Trong dòng luân hồi, không có một cơ sở vững chắc nào mà
quý vị có thể trông cậy được
2) Dù quý vị buông thả trong các lạc thú của luân hồi bao nhiêu,
cuối cùng chúng cũng không đem lại thỏa mãn.
3) Quý vị đã bị vướng vào sinh tử luân hồi từ vô thỉ.
Khuyết điểm đầu tiên gồm có bốn phần:
1) Không có sự an toàn nào trong việc có được thân, bởi vì
quý vị bỏ thân tái lặp nhiều lần.
2) Không có sự an toàn nào trong các tác nhân giúp ích hoặc
làm hại, bởi vì các tác nhân này không chắc chắn.
3) Không có sự an toàn nào trong việc đạt được một tình
trạng tuyệt vời, bởi vì cái gì ở trên cao sẽ xuống thấp.
4) Không có sự an toàn nào nơi các bạn đồng hành, bởi vì
vào lúc chết quý vị ra đi không có bạn đồng hành.
Điểm thứ ba trong bốn điều nêu trên chỉ việc phải tái sinh
lặp đi lặp lại; không có giới hạn nào cho dòng tái sinh cả. Cũng suy ngẫm về
đau khổ theo cách sắp xếp ba phần này.
BA480 Suhṛl-lekha: 66; P5682: 236.5.5.
BA481 Subâhu-paripṛcchâ-tantra, {Tên Phạn đầy đủ Ârya-subâhu-paripṛcchâ-nâma-mahâyânâ-sûtra} P428: 35.3.5-6.
BA482 Suhṛl-lekha: 67; P5682: 236.5.5-6.
BA483 Cách diễn tả ở
đây (so so yi skye bo’i rjes su ‘brangs pa’i ‘khor ba pa) gợi ý rằng một số
phàm phu có thể đi theo cách thức của bậc thánh và như thế, bằng cách bắt chước
gần giống như cách hành xử của bậc thánh, đạt gần tới tình trạng của các vị.
BA484 Suhṛl-lekha: 26; P5682: 235.5.8-236.1.1.
BA485 Pâramitâ-samâsa: 27; P5340: 16.3.4.
BA486 Śiṣya-lekha:
90-91; P5683: 240.5.2-3.
Nhắc lại, Yak là
loại bò lông dài ở Tây Tạng, chịu được khí hậu rất lạnh. Người ta nuôi yak để
chở đồ và để lấy sữa và thịt. Da yak dùng để may giầy, quần áo, và che lều;
phân yak dùng để làm củi. Quạt làm bằng đuôi yak màu trắng được coi là thứ đồ
quí hiếm.
BA487 Śoka-vinodana, P5677: 232.1.6-232.2.1.
Được cho là của Mã Minh {skt. Aśvaghoṣa –còn có tên Hán-Việt là Trừ Ưu}
trong P.
BA488 Tsongkhapa có
trích dẫn một bản Gaṇḍa-vyûha-sûtra có phần khác với P761: 299.3.1-3. So
sánh với Vaidya 1960c 390.
BA489 Suhṛl-lekha: 68ab; P5682: 236.5.6-7.
BA490 Ibid., 68ab;
P5682: 236.5.7.
BA491 Vyakta-padâ-Suhṛl-lekha-ṭîkâ, {Còn có tên là Minh Cú Luận} P5690: 264.5.2-4.
BA492 Cś: 7.10;
P5246: 136.5.3-4.
BA493 Bodhisattva-yogâ-caryâ-Catuḥ-úataka-ṭîkâ, {Bồ-tát Du-già Hạnh Tứ Bách Luận Thích}
P5266: 226.2.1-5.
BA494 Suhṛl-lekha 69-75; P5682: 236.5.7-237.1.7.
BA495 Các thần thể
dạng Trời {Phạm Thiên} sống bên ngoài dục giới; ở đó không có tham muốn nhục
dục và không có phụ nữ. Zahler và đồng tác giả (1983) nói rằng những vị trời
này ở trong cõi thiền thứ nhất của sắc giới (Rupadhatu); những tài liệu khác
(Kloetzli 1983: 29-30, 45-50) lại gợi ý rằng tất cả các tầng của sắc giới có
thể được gọi chung là thế giới Phạm Thiên (Brahmâloka). Một tài
liệu khác (Lozang Jampal và đồng tác giả 1981:42, n.15) cho rằng từ “Brahmâ” trong dòng đặc biệt này chỉ tất cả các chúng sinh
trong cõi sắc và vô sắc giới (aupadhatu).
BA496 Vinaya-vastu (‘Dul ba lung),
P1030:50.2.5.
BA497 Suhṛl-lekha: 76; P5682: 237.1.6-7.
BA498 BCA: 8.32-33;
P5272: 255.2.3-4.
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a. Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1) Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận nói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luận của ngài Thế Thân[8] cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a) Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luận của ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp: Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i) Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ” [12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của những hành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15] nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16] đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]
cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18] Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thích của
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tập của Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tập của Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền} đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii) Mục đích
Vấn: Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]
dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]
cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.