Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 2
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Trung)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Chương 2: Từ
Bi, Cánh Cửa Bước Vào Đại Thừa
ii) Giai trình cấp bậcrèn luyện tâm giác ngộ
a’ Rèn luyện trên nền tảng giáo huấn Bảy phép luyện tâm trong truyền thừa truyền có nguồn ngốctừ Trưởng Lão [Atiśa]
1’ Phát triển vững chắc về thứ tự cửa các giai đoạn
a’’ Chỉ rõ cội nguồn của Đại thừa là từ bi
1’’ Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn khởi đầu
2’’ Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn giữa
3’’ Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn cuối
b’’ Sáu phép luyện tâm còn lại đều hay là các nhân hay quả của tâm từ
bi
1’’ Cách thức của "Bốn phép luyện tâm” đầu tiên – Qua
sự phát triển tình thương nhận ra tất cả chúng sinh như mẹ của mình–thực hành hoạt động như là các
nguyên nhân của tâm từ bi
2’’ Cách
thức tạo lòng Lòng mong
muốntận tụy vô điều kiện và tâm giác ngộ như là các hậu quả của từ
bi
–––––––––\–––––––––
ii) Giai trình Những cấp bậcrèn luyện tâm giác ngộ
Những cấp bậcViệc rèn luyện tâm giác ngộ gồm 2
phần
1. Rèn luyện trên nền tảng bảy phép luyện tâm trong
truyền thừa có nguồn ngốc
từ Trưởng Lão Đại sư
[Atiśa] (Chương 2- 3)
2. Rèn luyện trên nền tảng những huấn thị của đứcngài Tịch Thiên người con
của Đấng Chiến Thắng (Chương 4)
a’ Rèn luyện trên nền tảng bảy phép luyện tâm trong
truyền thừa truyền xuống ngốctừ Trưởng Lão Đại sư
Bảy phép luyện tâm này bao gồm:
[7] giác tâm mà từ đó quả vị Phật Ba-la-mật-đa sinh khởi; giác tâm này sinh ra
từ [6] lòng mong muốntận
tụy vô điều kiện; tấm lòng mong
muốn tận tụynày nảy sinh từ [5] tâm từ bi; tâm từ bi này được phát sinh từ
[4] tình thương; tình thương này được khởi lên từ [3] lòng mong muốn đền đáp lại lòng
tốt; sự ân cần của những người mẹ; lòng
mong muốn đền đáp lại lòng tốt, sự ân cần của những người mẹ được
sinh ra từ [2] việc hồi tưởng về lại
lòng tốt, sự ân cần của những người mẹ; và hồi tưởng này về lại lòng tốt; sự ân cần của những người mẹ được phát khởi
từ [1] việc nhận ra biết
tất cả các chúng sinh đều là những người mẹ của chính mình.
Rèn luyện trên nền tảng bảy phép
luyện tâm ngồm 2 phần
1. Phát triển vững chắcvề theo thứ tự của các giai trìnhđoạn
2. Tập luyện từng bước mộttiệm
tiến (Chương 3)
1’ Phát triển vững chắc vềtheo thứ tự của các giai
trìnhđoạn
Việc phát triển vững chải theo thứ tự của giai trình gồm
2 phân mục
1. Chỉ rõ cội nguồn của lộ trình Đại thừa là từ bi
2. Làm thế nào để sáu phép luyện tâm còn lại hoặc là
nhân hoặc là quả hay là ’’nhân quả’’
của tâm từ bi
a’’ Chỉ rõ cội nguồn của đạo pháp Đại thừa là từ bi
Việc chỉ rõ cội nguồn của đạo
pháp Đại thừa là từ bi gồm 3 phần [293]
1. Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn khởi đầu
2. Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn giữa
3. Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn cuối
1’’ Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn khởi đầu
Một khi tâm thức của quý vịcảm nhân được rung động bởi tâm
đại từ bi, ngay lập tức khởi dậy
niềm ước aoquý vị sẽ chắc chắn nguyện ước giúp giải thoát toàn bộ
chúng sinh thoát khỏi luân hồi. này.
Nếu tâm từ bi của quý vị này nhỏ, yếu thì quý vị không có cảm giác này. Vì lẽ đó, tâm từ bi hết sức quan trọng trong giai đoạn
khởi đầu. CVì việc cảm nhận trách nhiệm
để giải thoát giúp toàn
bộ chúng sinh giải thoát đòi
hỏi phải có một tâm đại từ bi . Nnếu tâm của quý vị khôngchưa cảm nhận được gánh vác trách nhiệm
này thì quý vị vẫn khôngchưa
được xếp vào hàng hành giả Đại thừa. Theo như Vô Tận Ý Đại thừa Kinh có nói[1]
Hơn nữa, tôn
giảđức
Xá-lợi-phất, tâm đại từ bi của các vị Bồ-tát là vô hạn. Tại sao? Tôn giảđức Xá-lợi-phất, vì đấy là điều kiện tiên quyết. đức Xá
Lợi Phất :Cũng như hơi thở là điều kiện đầu tiên giữ sựcho sức sống của một con người nhân sinh, còn, tâm Đại từ bi của Bồ-tát là điềuđòi hỏi kiện tiên quyết để đạt tới
Đại thừa một cách đúng đắn[2]
Cũng như theo kinh Đỉnh Đạo Tràng (gayâ-úîrṣa)
có dạy[3]:
"Bạch Văn-thù-sư-lợi, động lực của Bồ-tát hành là gì?
Đổi tượng của nó là gì?” Văn-thù-sư-lợi đáp: "Này Devaputra[4],
đại từ bi là động lực của Bồ-tát hành, đối tượng của nó là chúng sinh hữu
tình”.
Do đó từ bi là cơ sở của việc xúc
tiến các hành vi bởi vì quý vị nhận thấy rằng quý vị sẽ không giữ nổi hạnh
nguyện của mình nếu thiếu tu tập trong việc tích lũy hai đại thiện đức {Hai bồ
tư lương: công đức (tib. བསོད་ནམས་ཀྱི་ཚགས) và trí huệ (tib. ཡེ་ཤེས་ཀྱི་ཚགས)} và quý vị bắt đầu công việc khó khăn cho việc tích
lũy các đại thiện đức hai Đại Công
đức này”.trên
2’’ Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn giữa
Sau khi nQuý vị có
thể phát triển tâm giác ngộ ở đến một thời điểmn nhất định và sau đó ngươi sẽ bắt đầu xúc tiến việc làm Bồ-tát hànhđạo. Nhưng khi quý vị nhận ra rằng chúng sinh nhiều như hằng hà vô sa số, và hành động không phù hợp, rằng điều này sẽ làm ngươi nao núng, viêc, việc rèn luyện sẽ cảm thấy phức tạp rất khó khăn và không giới hạn và rằng quý vị phải cần đến thời gian lâu vô hạn, thì
quý vị có thể đánh mất can đảm cũng như rằng là ngươi cần hiểu phải đặt niềm tin vào bề dày của thời gian. Nhưng ngươi cũng có thể đánh
mất tiếng gọi nơi trái tim và rơi vào Tiểu thừa.
Tuy nhiên, qua việc tự luyện Vì
vậy ngươi cần phải tập
làm quen để làm cho lòng từ bi tăng trưởng hơn là điều không xảy ra ở một lần
phát triển, khiến quý vị trở nên ít quan tâm đến chính hạnh phúc hay đau khổ
của riêng mình và chùn bước trong việc hỗ trợ cho ích lợi của tha nhân.
vơi ý tưởng tăng trưởng dần dần tâm Đại từ bi cho mình, chứ không phải phát triển tâm này trong một
thời gian nhất định. Được như vậy ngươi
sẽ cảm thấy bớt bị chi phối bởi an lạc hay phiền não của mình và không còn chán
nản ý định mang lại an lạc cho chúng sinh khác nữa, Do đó, quý vị sẽ dễ dàng
hoàn tất mọi sự tích lũyhơn việc
thâu lượm công đức cho mình. [294]. Theo như Giai Trình Thiền (Bhavanakrama)
phần đầu của Ngài Liên Hoa Giới có dạy[5]
Bởi lẽ các vị Bồ-tát hành động bằng tâm đại từ bi, các
ngài luôn mẫn cán, cố gắng vì phúc lợi của chúng sinh, không màng đến bản thân. mình. Hậu quả là các ngài đã tiến hành tích lũy hai
đại thiện đức qua một thời gian lâu
dài, đầy phức tạpkhó khăn, và mệt mỏi, và đòi hỏi thời gian
lâu dài. Cũng như Tín Lực Dưỡng Hành Ẩn
Kinh (Úraddhâ-balâdhânavatâra-mudrâ-sûtra)
có dạy[6]
Ai có tâm đại từ bi sẽ luôn chấp nhận lấy cuộc sống phiền não, từ buông bỏ cuộc sống an lạc
để giúp đỡ tất cả chúng sinh được hoàn thiện hơn
Một khi các đứcNếu các Bồ-tTát tiến hành việc như thế
này trong sự khó khăn cực kỳ, thì họ sẽ hoàn tất một cách trọn vẹn và nhanh
chóng các tích lũy này. Họ chắc chắn sẽ thành tựu trạng thái cao của nhất thiết
trí. tích lũy công đức, hoàn thành một ước nguyện đầy khó khăn, ngay lập tức các ngài nhận được trang thái
’’thông suốt toàn trí toàn thức"Như vậy cội rễ duy
nhất của Phật tính đó là tâm từ bi.
3’’ Tầm quan trọng của từ bi trong giai đoạn cuối
Dựa vào sức mạnh của đạitâm từ bi, các đức Phật ngay cảsau khi đã đạt được mục đích, các ngài không trụngụ lại trong
bình an Niết Bàn (như các hành giả Tiểu thừa) mà vẫn liêntiếp tục cứu độ vì lợi íchsự an lạc của chúng sinh chừng nàocho đến tận khi không gian này còn; tồn tại, nếu thiếu đi tâm từ bi, các đức Phật cũng chỉ như các Đúc Thanh Văn mà thôi. Theo như
phần thứ nhì Tu tập thứ đệ luận ( Giai Trình Thiền ) thứ
hai của đức Liên Hoa Giới có dạy[7]:
Từ khi các vị Phật Bhagavân[8]
thấm nhuần tâm đại từ bi, các ngài còn ở lại mãi cho đến lúc còn chúng sinh, đến tận cùng của thế giới mà trong đó chúng sinh đang cư ngụ,
mặc dù lúc các
ngài đã hoàn thành tuyệt
hảo {Ba-la-mật-đa} cho mục tiêu của riêng các ngài.đạt được Mục Đích Trọn Vẹn của các ngài
Hay làVà cũng vậy:
Nguyên nhân duy nhất khiến các đức Như Lai không ở lạivĩnh hằng trong Niết-bàn của hỷ
lạc đó là tâm đại từ bi.
Tôn giảngài Nguyệt Xứng đã chỉ dạy :rằng giống như những hạt giống, nước, quả sự chín rộ đều quan trọng cho
việc bắt đầu, tiến triển và kết thúc của vụ gặt hái, tâm từ bi hết sức quan
trọng cho giai đoạn khởi đầu, giữa và kết của mùa gặt Phật quả. Như
trong Nhập Trung Luận Thích khẳng
định[9]
Riêng - Tâm từ bi riêng
nó được xemkính
như hạt mầm cho mùa thu hoạch tuyệt vời gặt bội
thu của đấngđức
Chiến Thắng
Cũng như nước giúp chohạt mầm sự phát triển của nó
Và bởi sự chín mùi của trạng thái an lạc vô biên
Cho nên ngay từ đầu con xin tán dương tâm từ bi [295]
Với ý tưởng mạnh mẽ về quan điểm
này, trong Pháp Tập Kinh (Dharmasaṃgîti-sûtra) có nói[10]
Bạch Thế Tôn, các vị Bồ-tát không nên cần học nhiều giáo pháp, Thế Tôn,
nếu các vị Bồ-tát nắm bắt và hiểu được một điều dạy, các ngài sẽ có toàn
bộ Phậtgiáo
pháp trong bàn tay của các ngài. Điều
gGiáo pháp đấy là gì vậy ?
Đó là tâm đại từ bi.
Bạch Thế Tôn, với đại từ bi thì tất cả giáo pháp của
Phật đều nằm trong bàn tay của các Bồ-tát. Ví như Chuyển Luân Vương sẵn có binh
lực cho trận đánh của mình. Cũng như thế, Bạch Thế Tôn, ở đâu có đại từ bi của
các Bồ-tát, thì ở đó có đủ cả các giáo pháp của Phật. Thí như Bạch Thế Tôn, ví như : Mmột khi có một sức sống, thì sẽ hiện hữu tất cả các cơ
quan thụ cảm. Thưa Thế Tôn, tương tư
vậy, Cũng nhưmột
khi tâm đại từ bi còn thì tất cả những phẩm hạnh của các vị Bồ-tát sẽ trình hiện nên [11]
Một khi quý vị tin chắc được rằng tâm từ bi là chìa
khoá tuyệt diệuđặc biệt dẫn đến đạo
phápphật quả mà đã được thông
qua chứng minh bằng lý lẽ và thông qua vô số kinh điển, tại
sao quý vị không giữ lấy tâmngắn ’’Tâm giác ngộ’ cùng với cội nguồn của nó là tâm từ bi khiến để trở thành lời huấn thị tối cao? Như đại sư
Shang-Na-Chung (Zhang-Sna-Chung) đã nói: „Mặc dù ta đã hỏi Trưởng Lão [Atiśa] về những
huấn thịcốt yếu, ngài đã
trả lời không có gì ngoại trừ ’Từ bỏ thế tụcgiã cuộc sống, vun trồng tâm giác ngộ’”. Khi nghe thấy
điều này Geshe Drom-Dön-Ba (dGe-bshesBrom-ston-pa-rgyal-bái-byung-gnas) đã
ngượng ngùng thaybối rối
cho Shang-Na-Chung và nói: "Quý vị đã nhận được lời huấn thị tối hậu của tôn giảđại sư Atiśa”. Geshe Drom-Dön-Ba đã nhận thức được cốt lõi
của lời dạy này.
Sự thuyết phụcniềm tin này hết sức khó khăn để đạt đếnđược, quý vị cần phải truy tầm tích lũycho mình kiến thức vững
vàng, qua việc thường xuyên tẩy
xóa đi bỏnhững
tội lỗi, tích lũy công đức, và trau dồi kinh điểngiáo pháp như trong kinh Hoa
Nghiêm Kinh (đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh)và các bài luận của Kinh này đã chỉ rõ. Theo như Bách Ngũ Thập Kệ Tán Tụng, Mẫu Hầu có nói[12]
Chỉ có Ngài, đức Phật-đức
Chiến Thắng thấu hiểu tâm giác ngộ quí giá
Hạt mầm của giác ngộ toàn hảo
Để trở thành tinh túy
Không một ai khác có thể đạt điều chắc chắn này [296]tin chắc nhận biết tâm này
b’’ Cách thức sáu phép luyện tâm còn lại hoặc là các
nhân hoặc là các quả của hay là ’’nhân
quả’’ của tâm từ bi
Giải thích về cách thức mà sáu
phép luyện tâm còn lại hoặc là các nhân hoặc là các quả của của tâm từ bi bao gồm hai phần:
1. Cách
thức mà, bốn phép luyện tâm đầu tiên – qua sự phát triển tình yêu thương nhận ra tất cả
chúng sinh như mẹ của mình, tác động như các nguyên nhân của tâm từ bi.
2. Cách thức mà lòng mong muốn tận tụy vô điều kiện và Tâm giác ngộ là
các kết quả của từ bi.
1’’ Cách thức mà, bốn phép luyện tâm đầu tiên – qua sự phát triển tình yêu
thương
nhận ra tất cả chúng sinh như mẹ của mình, tác động như các nguyên nhân của tâm
từ bi.
Thường thườngNói chung, nếu quý vị thường
xuyên lưu tâm đếntậm
trung chú ý,nhận ra những khổ đau của các chúng
sinh, tất yếu quý vị sẽ phát triển ý thức mong muốn đơn giản là giúp chúng sinh
thoát khỏi phiền não này.
Tuy nhiên, để phát triển lối
ứng xửquan điểm này một cách dễ dàng, mạnh mẽ và vững chắc, quý vị trước tiên cần phải chăm nomnom yêu thương, và có tình sự cảm thông với họ. Vì hiện tại
quý vị không thể chịu nổi khi các bạn quý vị đau khổ; quý vịNhư hiện tại ngươi có cảm giác bất an khi cảm
nhận những khổ đau của bạn mình,song lại rất hả hê với đau khổ của kẻ thù mình; và quý vị
không dao động với đau khổ của những người mà với họ quý vị có các xúc cảm
trung tính, tức là những ai không là bạn cũng không là thù.
Quý vị có ứng Cư xử
theo cách đầu tiên, bởi vì quý vị thương mến những người bạn của mình. Tương xứng với sự chăm nom của quý vị cho họ, là việc
quý vị không thể chịu nổi khi thấy sự đau khổ của họ. và cảm giác bất an này tương ứng rấi tình
thương đối với người bạn . Khi tình cảm đổi với người bạn là ít và
vừa thì cảm giác khó chịu trước đau khổ cũng chỉ có giới hạn. Song nếu tình cảm
này thật quá lớn
thì quý vị rõ ràng không thể chịu nổi trước đau khổ của họ chút nào dù rằng họ
chỉ đau đớn chút ít.
cảm giác bất an rất rõ rệt mặc dù có nhiều lúc nỗi khổ này rất nhỏ bé.
Khi quý vị nhìn thấy nhữngkhổ đau của kẻ thù đau khổ mình, quý vị không những không nuôi dưỡng mong muốn giải
thoát họ khỏi đau khổ, mà quý vị còn nghĩ rằng "Cầu cho chúng nó không hết khỏi
khổ và đau khổ nhiều hơn thế nữa”mong họ thoát khỏi mà còn muốn kẻ thù phải chịu nhiều hơn nữa. Điều này là do quý vị thiếu lòng cảm thông với họ.đã làm ngươi đánh mất tình thương và Sự thiếu cảm thông của quý vị với các kẻ thù còn tương tỉ xứng với niềm vui của quý vị trên phiền não của họ
nữa.
Việc không có khả năng đồng cảm
hay phản cảm với các khổ đau của những người mà quý vị có cảm xúc trung tính
với họ là kết quả của việc không có sự cảm thông lẫn thiếu vắng lòng ưu ái đến
họ.
Như vậy cảm giác buồn bả hay vui vẻ trước khổ đau của một con người, xuất
phát từ cảm giác tự nhiên của ’ngươi’ là kết quả từ ’có’ hoặc ’đánh mất’ tình
thương đối với họ.
Một cách hệ quả, Tóm lại:để có lòng yêu thương đối
với chúng sinh, hãy phải nuôi
dưỡng quan điểm rằng các chúng sinh gần gũi với mình hơn, xem họ như những người bạn, họ hàng. Bởi lẽ
mẹ là người gần gũi nhất, hãytừ đó nuôi dưỡng sự nhìn nhận thức tất cả các chúng sinh đều như mẹ mình. , sau đó Cũng thế, hãyhồi
tưởng lại nhớ đến lòng tốt của họnhững điều tốt của các chúng sinh như là những bà của mẹ của mình và phát triển nguyện vọng đền đáp những lòng tốt đẹp của họ. Đây là ba bước để quý
vị học tạo niềmyêu thương và
chăm nom đối với các chúng sinh như là một người mẹ lo lắng cho đứa con độc nhất của
mìnhhữu tình. Lòng yêu thương này làm phát khởi tâm từ bi.Kết quả của 3 bước này tình thương đối với
tất cả chúng sinh-những người được yêu mến-như tình thương của người mẹ đối với
những đứa con của họ. Tình thương này sẽ làm tâm từ bi tăng lên
[297].
Mối quan hệ nguyên nhân quả giữa từ bi và tình
thương là niềm khi mong
ước cho chúng sinh đạt được
hạnh phúc vô hạn địnhlà không rõ ràng. Ba mục đích – bao gồm (nhìn nhận thức tất
cả các chúng sinh như mẹ của mình, nhớ đếnlại lòng tốt của họ, và mong muốn đền đáp hoàn trả lại lòng tốt này – là nền
tảng cho cả tình yêu thương
mong muốn chúng sinh được hạnh phúc lẫn lòng từ bi ước nguyện cho họ được thoát
khỏi đau khổ.hai 1:Tình thương:Biểu hiện
như là ước mong tất cả các chúng sinh đặt được hạnh phúc 2:Từ bi :Biểu hiện như
là ước mong tất cả các chúng sinh giải thoát khỏi phiền não. Vì thế Cho
nên, quý vị cần phải nỗ lực vun trồng cả ba mục đích này.
Các đại sư Nguyệt Xứng, Nguyệt Quan và Liên Hoa Giới đã giải thích việc nuôi dưỡng nhận thức xem tất cả các chúng sinh
như là những người bạn, họ hàng của mình là nguyên nhân thúc đẩy phát triển tâm
giác ngộ.
2’’ Cách thức mà lòngmong muốn tận tụy vô điều kiện và Tâm giác ngộ là
kết quả của từ bi
Nghi Vấn : Một khi quý vị rèn
luyện tâm thức tâm từng
bước để phát triển tâm từ bi, quý vị và phát khởisinh
lòng ước ao đạt được Phật quả để đem lại lợi ích cho chúng sinh.
Điều này đáng lý đã đủ. Đây là mục
đíchTại sao lại cần thiết phải bước phát triển lòngmong muốn tận tụy vô điều kiện trong khigiữa phát triển tâm từ bi
và pháttaọ sinh tâm
Bồ-đề?
Đáp: Mặc dù các đức
Thanh Văn, Duyên Giác Phật có một tình thương, bi mẫn vô hạn, bởi đó,nhưng các ngài nghĩ rằng: "Chúng sinh có thể
tìm được hạnh phúc và thoát khỏi mọi phiền não”,chỉ có Hành giả Đại thừa mới có nguyện ước nhưng các vị phi Đại thừa này lại không nghĩ rằng: "Tôi sẽ gánh vác trách nhiệm tẩy trừ đau khổ và đem lại hạnh phúc cho mọi chúng
sinh”Con nguyện một lòng giúp đỡ
tất cả chúng sinh lìa bỏ khổ đau, mang lại hạnh phúc ’’. Vì thế quý vịnhất thiết cần phải phát triển sự tận tụy vô điều kiện lòng tận tụy vô điều kiện để
vượt lên qua tất cả những ý tưởng mạnh mẽ kháctâm chướng, thật không đủ khi
nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh có thể tìm được hạnh phúc và thoát khỏi
mọi phiền não”. Quý vị phải nhận thức thêm một cách yêu thương vô điều kiện xem đây như là một trách nhiệm tạo ra bởi chính của mình. Từ đó, quý vị nên phân
biệt giữa hai cách nghĩ nàyvà cần
phải phân biệt mạch lạc giữa 2 com đường này. Như Hải Huệ Vấn Kinh (Úâgaramati-paripṛcchâ-sûtra) tuyên thuyết[13]:
Này Úâgaramati[14],
giả sử:Sagaramati(Biển trí huệ) : M
một chủ nhà, hay mộtnhà
thương gia có duy nhất một cậu con trai, hấp dẫn, dể thương,đáng yêu, quyến rũnhanh nhẹn, và vui vẻthông minh. Giả sử cậu bé còn trẻ, hay chơi nghịch,
cậu tanô đùa và rơi vào
một hố bẩn. Khi mẹ và họ hàng của cậu bé biết đượcthấy bèn khóc, than vãn và đau lòng nhưng họ không
nhảy xuống hố để kéo đứa bé lên. [298] Mặc dù vậy, khi bố của đứa bé về
và thấy con trai của ông rơi vào hố bẩn, ý nghĩ đầu tiên
của ông ta là muốn cứu bảo vệ con,
không do dự đã nhảy ngay vào hố bẩn lôi đứa bé lên.
Nếu xét Sự tương quan giữa về ý nghĩa và các tình tiết của
câu chuyện là thì hố bẩn
tượng trưng cho ba giới {dục giới, sắc
giới và vô sắc giới};3 Địa hạt(cõi người,Atula và cõi trời), đứa con trai
duy nhất tượng trưng cho tất cả chúng sinh; người mẹ và họ hàng tượng trưng cho
đức Thanh Văn và Duyên Giác Phật, những người nhìn thấy các chúng sinh rơi vào
luân hồi, đã đau khổ, thương xót nhưng không có khả năng bảo vệ chúng sinh. Còn
chủ nhà hay thương gia {người cha} tượng trưng cho các vị Bồ-tát. Do đó, điều nàycó thể nói lên
rằng tâm từ bi của đức Thanh Văn, Duyên Giác giống như
tình thương của bà mẹ đối với đứa con trai duy nhất bị rơi vào hố bẩn. Vì thế
phát triển lòng tận tụy vô điều kiện để gánh vác trách nhiệm giải thoát giúp tất cả chúng sinh dẫn tới giải thoát phải đặt trên nền
tảng tâm từ bi.
Một khi ngươi có ý định giúp giải thoátđỡ tất cả chúng sinhgiải thoát khỏi khổ đau, quý vị có thể nhận ra rằng trong tình trạng hiện
tạinhư là một người bình thường
thì quý vị không thể hoàn
tất được ý định dù chỉ cho một chúng sinhthực hiện được. Hơn nữa, nếu quý vị đạt được
trạng thái cao của hai2
vị A-la-hán kia La Hán([Thanh
Văn, Duyên Giác] thì quý vị cũng chỉ có đủ khả năng nhắm đến sự giải thoát chỉ chogiúp được một số ít chúng sinhgiải thoát khỏi đau khổ, nhưng sẽ không đủ khả nănggiúp xác lập cho họ đạt được toàn
giác. Do đó, nếu quý vị nghĩ: "ai có thể làm mãn nguyện tất cả mục đích tạm thời và mục đích cuối cùng của vô hạn tất cả chúng sinh?” Quý vị sẽ nhận ra rằng chỉ có duy nhất đức
Phật mới có khả năng này. Sau đó, quý vị sẽ Vì vậy ngươi cần phải phát triển mong muốn để đạt được Phật quả mang lại lợi
ích cho tất cả các chúng sinh.
BA23
Bkl, Tucci 1958: 497-498; D3915: Ki 22b2-4.
BA24
Ârya-sraddhâ-balâdhânavatâra-mudrâ-nâma-mahâyânâ-sûtra,
D201:
Tsha 15a4.
BA25.
Bhavana-krama Quyển nhì (Bk2),
D3916: Ki 42b-7.
BA26
Madhyamakâvatâra (MAV): 1.2; D3861:
Ha 201a2-3.
BA27
Ârya-dharma-saṃgîti-nâma-mahâyânâ-sûtra,
D238:
Zha 84a5-b3. Trích dẫn tìm thấy trong Bkl, Tucci 1958: 497; D3915: Ki 22a3-6.
Theo
bản Phật Thuyết Pháp Tập kinh phiên âm Hán-Việt Trần Tiễn Khanh và Trần
Tiễn Huyến 2/10/2008. Tuệ Quang Foundation. Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.
No. 761. Nguyên Ngụy Bồ-đề Lưu Chi Hán dịch. Truy cập 08/06/2010.
<http://www.daitangvietnam.com/phienamdaitang.htm.>
thì đoạn văn này đã dịch trong dạng Hán-việt như sau:
Nhĩ thời Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật ngôn,
Thế Tôn, Bồ Tát bất tu tu học đa Pháp, Thế Tôn, Bồ Tát nhược thọ trì nhất pháp
thiện tri nhất pháp dư nhất thiết chư Phật Pháp tự nhiên như tại chưởng trung. Thế Tôn, hà giả thị nhất pháp, sở vị
đại bi, Bồ Tát nhược hành đại bi, nhất thiết chư Phật Pháp như tại chưởng
trung. Thế Tôn, thí như Chuyển luân Vương sở thừa luân bảo, tùy vãng hà xử nhất
thiết tứ binh tùy thuận nhi khứ. Thế Tôn, Bồ-tát Ma-ha-tát diệc phục như thị,
thừa đại bi tâm tùy chí hà xử, bỉ chư Phật Pháp tùy thuận đại bi tự nhiên nhi
khứ.
BA28
Śata-pañcâúataka-nâma-stotra:
19;
Dll 47: Ka 110b6-7. Theo bản dịch tiếng Tạng thì tác phẩm này được cho là của
ngài Aśvagoṣa
{Mã Minh}.
BA29.
Cf. Ârya-úâgaramati-paripṛcchâ-nâma-mahâyânâ-sûtra,
D152:
Pha 86a3-6.
Úâgaramati dịch nghĩa là “Hải Huệ”
hay “Biển Trí Tuệ”.
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a. Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1) Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận nói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luận của ngài Thế Thân[8] cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a) Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luận của ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp: Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i) Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ” [12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của những hành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15] nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16] đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]
cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18] Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thích của
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tập của Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tập của Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền} đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii) Mục đích
Vấn: Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]
dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]
cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.