Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 2
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Trung)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Dàn Ý cho quyển 2
[Chương 1: Các giai đoạn của lộ trình dành cho những cá nhân có khả năng
cao ]
3. Các cấp bậc lộ trình của sự luyện tập tâm thức dành cho những cá
nhân có đại thiện căn
a) Chỉ ra rằng chỉ có sự phát triển của Tâm giác ngộ
là cánh cửa duy nhất dẫn đến Đại thừa.
b) Làm thế nào để phát triển Tâm giác ngộ.
I.i) Tâm giác ngộ phụ thuộc ra sao vào sự nảy
sinh của những nguyên nhân chính
I a’. Sự phát triển của Tâm giác ngộ qua 4 hoàn cảnh bốn
duyên
I.b’. Sự phát triển của Tâm giác ngộ qua 4 bốn nguyên nhân
Ic’. Sự phát triển của Tâm giác ngộ qua bốn sức
mạnh
[Chương 2: Từ bi, cánh cửa bước vào Đại thừa]
ii) Giai
trình cấp bậc
rèn luyện tâm giác ngộ
a’ Rèn luyện trên nền tảng giáo huấn Bảy phép luyện tâm trong truyền
thừa truyền có nguồn gốc từ Trưởng Lão [Atiśa]
1’ Phát triển vững chắc về thứ tự
cửa các giai đoạn
a’’ Chỉ rõ cội nguồn của Đại thừa
là từ bi
1’’ Tầm quan trọng của từ bi trong
giai đoạn khởi đầu
2’’ Tầm quan trọng của từ bi trong
giai đoạn giữa
3’’ Tầm quan trọng của từ bi trong
giai đoạn cuối
b’’ Sáu phép luyện tâm còn lại đều hay là các nhân hay quả của tâm từ bi
1’’ Cách thức của "Bốn phép luyện
tâm” đầu tiên – Qua sự phát triển tình thương nhận ra tất cả chúng sinh như mẹ
của mình – thực hành
hoạt động như là các nguyên nhân của tâm từ bi
2’’ Cách
thức tạo lòng Lòng
mong muốn tận tụy vô điều kiện và tâm
giác ngộ như là các hậu quả của từ
bi
[Chương 3 Bảy phép luyện tâm]
2’ Sự rèn luyện từng
bước
a’’ Rèn tâm để có
được sự kiên quyết vì lợi ích của chúng sinh
1’’ Xác lập
nền tảng để phát triển thái độ này
(a) Đạt được
tâm bình đẳng hướng về chúng sinh
(b) Yêu mến
tất cả chúng hữu tình
(i) Nuôi
dưỡng nhận thức rằng mọi chúng sinh đều là mẹ của mình
(ii) Nuôi
dưỡng ký ức về lòng tốt của họ
(iii) Nuôi
dưỡng ước nguyện đền đáp lòng tốt của họ
2’’ Phát
triển thái độ kiên quyết đến lợi ích của tha nhân
(a) Nuôi
dưỡng tình yêu thương
(b) Nuôi
dưỡng lòng từ bi
(c) Nuôi
dưỡng sự quyết tâm tuyệt đối
b’’ Luyện tâm kiên
quyết đạt giác ngộ
c’’ Nhận ra tâm giác
ngộ, thành quả của sự rèn luyện
[Chương 4 Hoán Chuyển Ngã-Tha]
b’ Rèn luyện dựa trên các giảng dạy của đứa con của
các đấng chiến thắng, ngài Tịch Thiên
1’ Quán chiếu về những lợi lạc của việc hoán
đổi giữa bản thân và người khác {hoán chuyển ngã-tha} và sai sót của việc không
hoán đổi như vậy
2’ Khả năng hoán chuyển ngã-tha nếu quý vị làm
quen với ý nghĩ về việc làm như vậy
3’ Các giai đoạn của thiền định về làm sao
hoán chuyển ngã-tha
iii) Phương pháp tạo ra tâm giác ngộ
[Chương 5 Lễ Phát Tâm
Bồ-đề]
iv) Làm sao để tạo ra Bồ-đề tâm thông
qua các nghi lễ
a’ Đạt đến điều mà quý vị chưa đạt
được
1’ Người mà trước
người đó quý vị phát khởi Bồ-đề tâm
2’ Những cá nhân khởi
tạo ra tâm giác ngộ
3’ Làm sao để tham
gia vào một nghi lễ phát Bồ-đề tâm
a’’ Sự chuẩn bị cho
nghi lễ
1’’ Tiến hành các
thực hành đặc biệt để quy y
(a) Sau khi đã trang
hoàng nơi tổ chức lễ và thiết lập các vật biểu tượng của Tam Bảo, sắp xếp vật
cúng dường
(b) Thỉnh cầu và quy
y
(c) Bắt đầu giới
nguyện quy y
2’’ Tích tập công đức
3’’ Thanh tịnh thái
độ
b’’ Nghi lễ chính
thức
c’’ Phần kết thúc của
nghi lễ
[Chương 6 Nuôi Dưỡng Bồ-đề Tâm]
b’ Duy trì và không
làm suy yếu những gì quý vị đã đạt được
1’ Việc rèn luyện
giới luật khiến quý vị không làm suy yếu tâm giác ngộ trong đời này
a’’ Việc rèn
luyện giới luật để nhớ lại những lợi ích của Bồ-đề tâm nhằm tăng sức
mạnh sự nhiệt tình của quý vị cho nó
b’’ Việc rèn
luyện giới luật để phát khởi tâm giác ngộ sáu lần mỗi ngày nhằm tăng cường
Bồ-đề tâm thực sự
1’’ Kiên
cường phát triển Bồ-đề tâm nguyện
2’’ Rèn luyện
nâng cao Bồ-đề tâm nguyện
c’’ Rèn luyện
giới luật để không có ý từ bỏ chúng sinh, mà là vì lợi ích của họ, quý vị phát
triển tâm giác ngộ
d’’ Việc rèn
luyện giới luật để tích lũy các tư lương công đức và trí tuệ siêu phàm
2’ Rèn luyện
giới luật khiến cho quý vị cũng không bị tách rời với tâm giác ngộ trong kiếp
sống tương lai
a’’ Tu tập
trong giới luật để loại bỏ bốn hành vi đen tối vốn làm suy yếu tâm giác ngộ
b’’ Rèn luyện
giới luật để áp dụng bốn thực hành trong sáng giữ cho tâm giác ngộ khỏi suy yếu
c’ Phương pháp tu sửa
Bồ-đề tâm nếu quý vị làm suy yếu nó
[Chương 7 Dẫn Nhập về Lục-độ-Ba-la-mật-đa]
c)
Cách tu học Bồ-tát hành sau khi đã phát tâm giác ngộ
i)
Lý do vì sao phải tu tập sau khi đã phát tâm Bồ-đề
ii)
Chứng minh rằng quý vị sẽ không thể nào trở thành Phật bằng cách tu học phương
tiện hay trí huệ một cách riêng biệt
[Chương 8 Tu Tập Đại Thừa:
Các Giới Luật và Ba-la-mật-đa]
iii) Giải
thích tiến trình tu học giới luật
a’ Cách tu
tập theo Đại thừa nói chung
1’ Xác lập
nguyện ước tu học giới luật của tâm giác ngộ {Bồ-đề tâm}.
2’ Thọ giới
con Phật {Bồ-tát giới} sau khi đã phát nguyện học giới luật của tâm giác ngộ.
3’ Cách thức
rèn luyện sau khi thọ giới
a” Nền tảng
của giới luật
b” Cách thức
mà tất cả các giới luật được thu tóm trong sáu Ba-la-mật-đa
1” Thảo luận
chủ đề chính, số lượng Ba-la-mật-đa cố định
(a) Số lượng
các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên đẳng cấp cao
(b) Số lượng
các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên việc viên thành hai mục tiêu
(c) Số lượng
các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên việc viên thành các mục tiêu của người khác
(d) Số lượng
các Ba-la-mật-đa cố định và sự thu nhiếp của chúng đối với toàn bộ hệ thống Đại
thừa
(e) Số lượng
các Ba-la-mật-đa cố định trong khuôn khổ viên mãn của các lộ trình hay phương
tiện
(f) Số lượng
các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên tam vô lậu học {giới, định, và tuệ}
2” Thảo luận
phụ về thứ tự cố định của các Ba-la-mật-đa
(a) Thứ tự
khởi sinh
(b) Thứ tự
cao thấp
(c) Thứ tự
thô lậu và vi tế
[Chương 9 Bố Thí
Ba-la-mật-đa]
c” Tiến trình tu tập
các Ba-la-mật-đa
1” Cách tu tập các
hạnh Bồ-tát nói chung
(a) Tu tập
các Ba-la-mật-đa để tăng trưởng phẩm chất mà quý vị sẽ có khi thành Phật
(i) Cách tu
tập Ba-la-mật-đa bố thí
(a’) Bố thí
là gì?
(b’) Cách bắt
đầu nuôi dưỡng đức bố thí
(c’) Phân
loại bố thí
(1’) Vì sao
mọi người nên thực hành đức bố thí
(2’) Các Phân
loại bố thí theo mối quan hệ đến các cá nhân
(3’) Các phân
loại bố thí thực tế
(a’’) Pháp
thí
(b’’) Vô úy
thí
(c’’) Tài vật
thí
(1’’) Thực tế
bố thí về Tài vật
(a)) Cách tiến hành tài thí
(1)) Người
nhận bố thí
(2)) Động lực
bố thí
(a’)) Loại động lực đòi hỏi
(b’)) Loại động lực phải loại trừ
[Chương 10: Cách Thức Bố
Thí]
(3)) Cách
thức bố thí
(a’)) Dạng bố thí nên tránh
(b’)) Cách thức bố thí
(4)) Các vật bố thí
(a’)) Giới
thiệu vắn tắt vật bố thí được và vật không được bố thí
(b’)) Giải thích chi tiết vật bố thí được và vật không
được bố thí
(1’)) Giải thích chi tiết về vật nội thân {các chi
tiết của thân thể} không được bố thí
(a’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện thời gian
(b’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện mục đích
(c’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện người xin
bố thí
(2’)) Giải
thích chi tiết về vật bên ngoài {vật ngoại thân} được và không được bố thí
(a’’)) Cách thức không bố thí vật bên ngoài
(1’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện thời gian
(2’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện vật cho
(3’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện người
{nhận bố thí}
(4’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện vật chất
(5’’)) Bố thí không thích hợp về phương diện mục đích
(b’’)) Cách thức bố thí vật ngoại thân
(b)) Phải làm gì nếu không thể bố thí
(c)) Sử dụng biện pháp đối trị chướng ngại trong việc
bố thí
(1)) Chướng ngại không quen bố thí
(2)) Chướng ngại tài sản sa sút
(3)) Chướng ngại tham chấp
(4)) Chướng ngại không nhìn thấy mục tiêu
(2’’) Bố thí thuần túy bằng ý nghĩ
(d”) Tóm tắt
[Chương 11 Trì Giới Ba-la-mật-đa]
(ii) Cách thức tu tập trì giới Ba-la-mật-đa
(a’) Trì giới là gì?
(b’) Cách bắt đầu tu tập trì giới
(c’) Phân loại giới luật
(1’) Giới luật kiềm chế
(2’) Giới luật tích luỹ công đức
(3’) Giới luật hành động vì lợi lạc chúng sinh
(c’) Cách tu tập
(d’) Tóm tắt
[Chương 12 Nhẫn Nhục Ba-la-mật-đa]
(iii) Cách tu tập nhẫn nhục Ba-la-mật-đa
(a’) Nhẫn nhục là gì?
(b’) Cách thức bắt đầu tu tập nhẫn nhục Ba-la-mật-đa
(c’) Phân loại nhẫn nhục
(1’) Phát triển nhẫn nhục bất kể nguy hại xảy ra cho
mình
(a’’) Ngưng sự thiếu nhẫn nhục đối với những kẻ làm
hại mình
(1’’) Ngừng sự thiếu nhẫn nhục
đối với những kẻ ngăn trở hạnh phúc của mình và những kẻ gây đau khổ cho
mình
(a)) Chứng minh rằng sân hận là
không đúng
(1)) Phân tích về mặt đối tượng
thì sân hận là không chính đáng
(a’)) Phân tích cho thấy bất kể
đối tượng có tự chế được hay không, thì sân hận là không chính đáng
(b’)) Phân tích cho thấy bất kể
là ngẫu nhiên hay bản năng, thì sân hận là không chính đáng.
(c’)) Phân tích cho thấy bất kể
sự gây hại là trực tiếp hay gián tiếp, thì sân hận là không chính đáng
(d’)) Phân tích cho thấy bất kể
nguyên nhân thúc đẩy kẻ gây ác, thì sân hận là không chính đáng
(2)) Phân tích về mặt chủ quan
thì sân hận là không chính đáng
(3)) Phân tích về cơ bản, thì sân
hận là không chính đáng
(a’)) Phân tích nguyên nhân của
việc gây hại và sự sai sót từ đâu
(b’)) Phân tích sự cam kết của
mình
(b)) Chỉ ra rằng lòng bi mẫn là
phù hợp
(2’’) Ngừng sự thiếu nhẫn nhục
đối với những ai ngăn trở sự tôn kính, tiếng tăm hay danh dự của mình và với
những ai xem thường mình hoặc những ai nói lời xúc phạm hay khó nghe về mình
(a)) Ngừng sự thiếu nhẫn nhục đối
với những người ngăn trở mình ba sự việc ̶ sự tôn kính, tiếng tăm hay danh dự
(1)) Quán chiếu rằng ba thứ này
vốn thiếu các phẩm tính tốt đẹp
(2)) Quán chiếu rằng ba thứ này
vốn có các khiếm khuyết
(3)) Sự cần thiết hoan hỷ nhờ có
những ai ngăn trở sự tôn kính và vv... của mình
(b)) Ngừng sự thiếu nhẫn nhục đối
với những ai xem thường hoặc nói những lời xúc phạm hay khó nghe về mình
(b’’) Ngưng cả sự không hài lòng với thành công của
những người gây hại lẫn sự thoả thích khi họ gặp rắc rối
(2’) Phát triển nhẫn nhục chấp nhận khổ đau
(a’’) Lý do phải dứt khoát chấp nhận khổ đau
(b’’) Cách thức phát triển sự chấp nhận
(1’’) Bác bỏ ý nghĩ cho rằng khi khổ đau xảy đến thì
đó là tuyệt đối khó chịu.
(2’’) Chứng minh rằng chấp nhận khổ đau là phù hợp
(a)) Quán chiếu về các phẩm tính tốt của khổ đau
(b)) Quán chiếu về các thuận lợi của sự chịu đựng các
gian khó khổ đau
(1)) Quán chiếu về các lợi lạc cốt lõi chẳng hạn như
sự giải thoát và vv...
(2)) Quán chiếu về lợi ích của việc xua tan khổ đau
bất khả tư lường {đau khổ khôn lường}
(c)) Cách thức mà việc chịu đựng khổ đau không còn khó
nữa nếu mình từng bước làm quen với nó, bắt đầu với khổ đau nhỏ
(c’’) Giải thích chi tiết từ các quan điểm của các nền
tảng
(3’) Phát triển nhẫn nhục về sự xác tín vào giáo pháp
(d’) Cách tu tập
(e’) Tóm tắt
[Chương 13 Tinh Tấn]
(iv) Cách thức tu tập tinh tấn Ba-la-mật-đa
(a’) Tinh tấn là gì?
(b’) Cách bắt đầu tu tập tinh tấn
(c’) Phân loại tinh tấn
(1’) Các Phân loại thực tế
(a”) Tinh tấn như áo giáp
(b”) Tinh tấn huân tập công đức
(c”) Tinh tấn của hành vi vì lợi lạc của chúng sinh
(2’) Phương pháp phát triển tinh tấn
(a”) Loại trừ các duyên {điều kiện} không thuận lợi
ngăn trở tinh tấn
(1”) Nhận diện những yếu tố không tương thích với tinh
tấn
(2”) Vận dụng phương pháp để loại bỏ những yếu tố
không tương thích
(a)) Ngưng thói lười biếng trì hoãn
(b)) Ngưng tham luyến vào những hoạt động thấp kém
(c)) Ngưng chán nản hay tự khinh miệt
(1)) Ngưng chán nản về mục tiêu
(2)) Ngưng chán nản về các phương tiện để đạt mục đích
(3)) Ngưng chán nản bởi vì bất kể ngươi ở đâu đều là
nơi để tu tập
(b”) Thu thập các năng lực của sự thuận duyên
(1”) Phát triển năng lực của ước nguyện
(2”) Phát triển năng lực của kiên định
(3”) Phát triển năng lực của hoan hỷ
(4”) Phát triển năng lực của ngừng nghỉ
(c”) Căn cứ vào việc loại bỏ những duyên không thuận
lợi và huân tập thuận duyên, hãy chuyên chú tinh tấn
(d”) Cách thức vận dụng tinh tấn để đưa thân và tâm
vào trạng thái hoạt dụng {trạng thái hoạt động tốt}
(d’) Cách tu tập
(e’) Tổng kết
[Chương 14 Thiền Định và
Trí Huệ]
(v) Cách thức rèn luyện thiền định Ba-la-mật-đa
(a’) Sự ổn định từ thiền {an định thiền} là gì?
(b’) Cách bắt đầu tu tập thiền định
(c’) Phân loại thiền định
(d’) Cách thức tu tập
(e’) Tổng kết
(vi) Cách thức rèn luyện trí huệ Ba-la-mật-đa
(a’) Trí huệ là gì?
(b’) Làm thế nào để khởi phát trí huệ
(c’) Phân loại trí huệ
(1’) Trí huệ hiểu biết chân đế {tối hậu}
(2’) Trí huệ hiểu biết tục đế {tương đối}
(3’) Trí huệ hiểu biết cách hành động vì lợi lạc chúng
sinh
(d’) Cách thức tu tập
(e’) Tổng kết
[Chương 15 Giúp Người Phát Triển – Bốn Phương Tiện Thu Phục Đệ Tử]
(b) Tu tập tứ nhiếp pháp để
thu phục đệ tử, giúp người khác trưởng thành
(i) Tứ nhiếp pháp là gì?
(ii) Lý do chúng được ước định là bốn phương pháp
(iii) Các chức năng của Tứ nhiếp pháp
(iv) Việc cần thiết dựa vào Tứ nhiếp pháp của
những người thu phục đệ tử
(v) Vài giảng giải chi tiết
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a. Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1) Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận nói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luận của ngài Thế Thân[8] cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a) Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luận của ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp: Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i) Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ” [12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của những hành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15] nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16] đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]
cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18] Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thích của
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tập của Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tập của Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền} đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii) Mục đích
Vấn: Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]
dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]
cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.