Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Chỉ Mê Vọng Không Có Nhân, Hết Mê Là Bồ Đề

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10034)
07. Chỉ Mê Vọng Không Có Nhân, Hết Mê Là Bồ Đề

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 8: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn


VII. CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN, HẾT MÊ LÀ BỒ ĐỀ

Kinh: Ông Phú Lâu Na thưa: “Chân Tâm tròn sáng, trong sạch nhiệm mầu của tôi và của Như Lai, đều tròn đầy không hai, thế mà tôi từ xưa mắc lấy Vọng Tưởng, ở lâu trong luân hồi nay được Thánh Thừa, còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các Vọng đều diệt sạch, độc chỉ một Chân Thường mầu nhiệm. Xin hỏi Như Lai, tất cả chúng sanh nhân gì mà có Vọng, tự mình che lấp tánh Diệu Minh, phải chịu sự trôi chìm này?”

Phật bảo ông Phú Lâu Na: “Ông tuy trừ được nghi ngờ, mà các điều lầm còn sót lại chưa dứt hết. Nay ta lại lấy những việc thế gian trước mắt mà hỏi ông. Ông há chẳng có nghe trong thành Thất La Phiệt, có anh Diễn Nhã Đạt Đa vào buổi sáng lấy cái gương soi mặt, bỗng ưa cái đầu trong gương và mày mắt có thể thấy được, rồi nổi giận trách cái đầu của mình sao không thấy mặt mày, cho là loài yêu quái, rồi không vì cớ gì phát điên lên bỏ chạy. Ý ông thế nào? Người ấy vì nguyên nhân nào mà khi không phát điên bỏ chạy?”.

Ông Phú Lâu Na thưa: “Tâm người ấy điên cuồng, chứ không có lý do nào khác”.

Đức Phật nói: “Tánh Diệu Giác tròn đầy vốn sáng suốt, nhiệm mầu tròn khắp. Đã gọi là Vọng thì làm sao có nhân, nếu có nguyên nhân thì sao gọi là Vọng? Chỉ tự các Vọng Tưởng xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái Mê mà tích chứa thêm Mê, trải qua vô số kiếp nhiều như bụi. Tuy Phật chỉ rõ ra, còn chưa thể trở lại. Như thế, nguyên nhân của Mê chỉ là nhân Mê mà tự có. Tỉnh ngộ cái Mê ấy vốn không có nguyên nhân, Vọng nào còn có chỗ nương dựa? Còn không có chỗ sanh ra, muốn diệt cái gì?

“Người được Bồ Đề như người tỉnh giấc, kể lại chuyện trong chiêm bao, tâm dù rõ ràng nhưng đâu còn nhân duyên nào nữa để cầm được vật trong mộng? Huống là cái Mê thấy mọi sự hiện giờ chẳng có nguyên nhân ở đâu cả, vốn không chỗ có! Như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa [Ở đây, lấy cái bản đầu của mình ví dụ cho Chơn Tánh; cái đầu trong gương ví dụ cho Vọng Tưởng (cái giả hình) ; chỗ vui vẻ thấy cái đầu trong gương có mặt mày ví dụ chỗ nhìn nhận cái giả tưởng là thật, chấp cứng, chẳng chịu bỏ. Chỗ chẳng thấy cái bản đầu của mình là vì Chơn Tánh khônghình tướng chi cả] trong thành kia nào có nhân duyên gì, bỗng tự sợ cái đầu mình rồi bỏ chạy. Tự nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ở ngoài mà có được. Dầu chưa hết cuồng, cái đầu kia cũng có khi nào mất.

“Phú Lâu Na, bản tánh của Vọng là như vậy đó, đâu có nguyên nhân gì mà có?

“Ông chỉ không tùy theo phân biệt các thế gian, nghiệp quảchúng sanh, ba thứ tương tục đó. Ba Duyên ấy đã đoạn, thì ba nhân cũng chẳng sanh, liền trong tâm ông cái điên cuồng của chàng Diễn Nhã Đạt Đa tự hết. Hết đó tức là Bồ Đề, cái Tâm tuyệt vời trong sạch sáng suốt, vốn khắp cùng pháp giới, không do đâu mà được, nào phải nhọc nhằn khẩn thiết tu chứng gì đâu”.

Thông rằng: Ông Phú Lâu Na đã chứng Hết Lậu, đã được Thánh Quả, sao lại còn các điều mê lầm còn sót chưa hết dứt? Chỉ vì trước kia có dụng công diệt trừ vọng tưởng, nghĩa là cái Tâm diệt trừ vọng tưởng này chính là cái Giác Minh Phân Biệt sợ cái đầu của mình mà phát điên bỏ chạy! Diệt Vọng cầu Chân, có cái Chân để đắc thì cũng như nhìn cái đầu trong gương, mày mắt thấy được. Chân nào có mất bao giờ, nhưng khó nổi đo lường, cũng như cái đầu vốn chẳng hề mất mà mặt mày khó thấy. Một khi sanh phân biệt đây là chúng sanh, đây là nghiệp quả rồi cho là khác với Chân Như của ta. Thế dầu có được Chân Như, do đoạn trừ Vọng mà chứng đắc, cũng chẳng phải là Tự Tánh Thiên Chân Phật xưa nay vậy. Ông Phú Lâu Na chưa thấu rõ chỗ này, nên cho rằng Vọng đã có thể diệt, thì vọng sanh ắt phải có nguyên nhân, cần biết cái nguyên nhân của nó, mới đoạn trừ được.

Ở đoạn trước đã nói: nhân Minh mà lập Sở, chính bởi vì thế mà Vọng sanh ra. Thế ấy cũng là phân biệt, chính thật là Vọng!

Đức Thế Tôn chỉ thẳng Đốn Môn, chẳng cần diệt Vọng, chỉ ngưng đi phân biệt, thì Bồ Đề tự sẵn đủ. Chỉ thôi chạy điên, thì cái đầu xưa vẫn y nguyên ra đó!

Sở dĩ vọng phân biệt, Vọng chạy điên, là vì tích chứa mê lầm mà có. Cái Mê vốn chẳng nhân đâu mà có, không từ Mê mà sanh ra, không từ Ngộ đến. Mê đã không gốc gác gì, thì Vọng nương đâu mà có? Vọng thật không chỗ nương, Vọng vốn chẳng sanh vậy. Vọng nguyên là chẳng sanh, không đâu mà có thể diệt. Diệt mà không đâu có thể diệt, đó là Tịch Diệt Hiện Tiền.

Tánh Diệu Giác tròn sáng, vốn sáng suốt nhiệm mầu tròn khắp, nguyên là không có chuyện sanh diệt, tuyệt không có mảy mún vọng nào cả. Trong Bồ Đề, tìm cái Chân còn không thể được, thì từ chỗ nào kiếm được cái vọng ư?

Cho nên, không tùy thuận theo phân biệt nơi chỗ sanh ra của ba thứ tương tục cùng cái nhân duyên đoạn trừ để cho khỏi sanh ra, tức thì một tâm niệm chẳng sanh, vạn pháp nào có lỗi? Đó là cái Bồ Đề tuyệt trần trong sạch, nào mượn sức người tu chứng để được ư? Ba Duyên tịch diệt, ba Nhân chẳng sanh, ở ngay trong đó mà tự thành Diệt Tận Định.

Ông Phú Lâu Na đều thường khởi ra các sự phân biệt, cho là Bồ Đề do tu chứng mà được. Chỉ cần đừng phân biệt rối rắm như vậy, thì không có Vọng nào để khá diệt, không có Chân nào khá đắc, bèn là thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới. Nếu nói Như Lai Độc Diệu Chân Thường, là do cả thảy đều trọn dứt diệt mà chứng được, thì chưa thấy chỗ diệu kỳ của Như Lai vậy.

nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá : “Như nay hiện có đủ thứ vọng niệm, vì sao lại nói không?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Vọng vốn không có tự thể, chỉ là nơi Tâm của ông khởi lên. Như ông biết Tâm nguyên là Phật, Tâm vốn chẳng có vọng, thì Tâm nào có khởi, luống lại đi nhận vọng ư? Như ông chẳng sanh tâm động niệm, thì tự nhiên chẳng có vọng nào cả. Do đó mới nói: Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.”

Nhà sư hỏi: “Nay ngay lúc vọng niệm khởi, thì Phật tại chỗ nào?”

Tổ Bá nói: “Nay ngay khi ông tỏ ra biết vọng niệm khởi lên, thì cái tỏ biết đó chính là Phật. Còn trong ấy mà không có vọng niệm, thì Phật cũng không. Vì sao như thế? Vì ông khởi tâm làm nên cái thấy Phật, bèn là có Phật để thành. Làm nên cái thấy có chúng sanh, bèn là có chúng sanh để độ. Khởi tâm động niệm đều là chỗ thấy của ông. Nếu không có tất cả mọi cái thấy thì Phật có ở chốn nào? Như Ngài Văn Thù vừa khởi lên cái Phật Kiến, liền bị hai ngọn núi Thiết Vi đè!

Nhà sư hỏi: “Nay chính lúc tỏ ngộ, Phật ở tại chốn nào?”

Tổ Bá đáp: “Cái hỏi đó từ đâu mà lại? Cái Giác đó từ đâu mà khởi lên? Nói, nín, động, tịnh, cả thảy thanh sắc, toàn là Phật sự, chỗ nào tìm Phật? Chẳng thể trên đầu lại chồng thêm cái đầu, trên miệng để thêm cái miệng! Chỉ đừng sanh dị kiến, thì núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục. Núi sông đại địa, nhật nguyệt tinh tú đều chẳng ra ngoài Tâm ông. Tam thiên thế giới đều là tự kỷ của ông. Chỗ nào mà có lắm thứ? Ngoài Tâm không pháp, ngập mắt núi xanh, thế giới, hư không, xứ xứ sáng rỡ, không một mảy tơ để ông chen vào kiến giải. Thế nên, tất cả thanh sắc là con mắt huệ của Phật. Pháp chẳng khởi lên một mình, nương cảnh mới có sanh, vì có vật mà có nên nhiều trí. Suốt ngày nói mà nào từng nói. Suốt ngày nghe mà nào từng nghe. Như thế nên Đức Thích Ca bốn mươi chín năm thuyết pháp mà chưa hề nói ra một chữ”.

Nhà sư hỏi: “Nếu như thế, chỗ nào là Bồ Đề?”

Tổ Bá nói: “Bồ Đề không là chỗ nào hết. Phật cũng chẳng đắc Bồ Đề, chúng sanh chẳng mất Bồ Đề. Không thể lấy thân mà được đó, không thể lấy Tâm mà cầu đó. Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ Đề”.

Nhà sư hỏi: “Như thế nào phát Bồ Đề Tâm?”

Tổ Bá nói: “Bồ Đề là không chỗ đắc. Nay ông chỉ phát tâm Vô Sở Đắc, quyết định không có một pháp nào để đắc, tức là Bồ Đề Tâm. Bồ Đề không có chỗ sanh ra, cho nên không có chuyện đắc. Thế nên nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có chút pháp nào có thể đắc, Phật bèn thọ ký cho Ta”. Phải rõ rằng, tất cả chúng sanh vốn là Bồ Đề, không lẽ trở lại đắc ư? Giờ đây ông hỏi phát Bồ Đề Tâm, muốn đem một cái tâm mà học lấy Phật Đạo. Chỉ nghĩ định làm Phật Đạo thôi, thì mặc cho ông tu ba a tăng tỳ kiếp cũng chỉ định được cái Báo Thân, Hóa Thân Phật. Thế thì đối với cái Chân Tánh Phật bổn nguyên của ông có giao thiệp gì? Nên nói: Cầu bên ngoài ông Phật có hình tướng, thì có giống gì ông đâu?”

Lại Tổ Lâm Tế nói rằng: “Chư vị học Đạo ở các nơi nói có Đạo để tu, có Pháp để chứng. Các ông thử nói xem chứng Pháp gì, tu Đạo gì? Hiện giờ đây chỗ dùng của các ông có thiếu hụt cái gì đâu? Sửa sang thêm thắt chỗ nào? Các ông thầy trẻ tuổi hậu sinh không hiểu, liền tin ngay đám cáo chồn tinh mị đó, để cho họ bày chuyện trói buộc người khác.

“Họ nói : Hình tướng đạo lý là do giữ gìn, mến tiếc ba nghiệp mới được thành Phật.

“Nói như vậy thì chỉ như mưa bụi mùa Xuân.

“Cổ nhân nói: “Trên đường gặp người đạt đạo, thứ nhất là chẳng hướng về đạo”!

“Do đó mà nói:

“Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành

Muôn ngàn tà cảnh lại đua sanh

Gươm Trí đưa ra không một vật

Cái sáng chưa bày, tối đã minh!”.

“Bởi thế, cổ nhân nói “Bình thường tâm là Đạo”. Đại Đức tìm kiếm cái gì? Ngay bây giờ đây, cái trước mắt nghe Phápđạo nhân không chỗ nương [Đạo nhân vô], khắp chốn rõ ràng phân minh, chưa từng thiếu hụt. Các ông như muốn cùng Phật, Tổ chẳng khác, chỉ như thế mà thấy, chẳng khởi nghi lầm. Như các ông tâm tâm chẳng khác, thì gọi là Tổ. Tâm mà có chút sai khác đi: Tánh, Tướng liền khác nhau. Tâm như như chẳng khác, thì Tâm và Tướng không hai”.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Tiến Phúc Tư rằng : “Điện xưa không có Phật thì như thế nào?”

Tổ Tư nói : “Phạm âm ở đâu tới?”

Lại hỏi : “Chẳng mượn tu chứng, làm sao đắc thành?”

Tổ Tư nói : “Tu chứng tức chẳng thành”.

Chỗ Thấy của các vị tôn túc, mỗi mỗi đều suốt hợp với ý chỉ “Nào phải nhọc nhằn, ráo riết tu chứng gì đâu?” Đây tức là Niết Bàn Diệu Tâm, Chánh Pháp Nhãn Tạng, nào phải chờ đến chuyện Linh Sơn đưa lên cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười, rồi sau mới gọi là “Biệt truyền Tâm Ấn” ư?

Kinh: “Ví như có người ở trong áo mình buộc một hạt Châu Như Ý mà không hay biết; nên phải xin ăn lưu lạc phương xa, nghèo nàn gầy ốm. Tuy bần cùng hết sức nhưng hạt châu không hề mất. Bỗng dưng có người Trí chỉ bày cho hạt châu, liền muốn gì có nấy, thành giàu có lớn, mới hay hạt Thần Châu chẳng phải do ở ngoài mà được.

Thông rằng: Kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm chỉ thẳng tâm người, thấy Tánh thành Phật đều lấy hạt châu trong áo làm ví dụ. Như Lai Tạng Tánh, bị năm Ấm che đậy, như hạt châu buộc trong áo, nên không dễ thấy được. Hướng ra ngoài chạy kiếm thì mỗi ngày đều thấy chẳng đủ, nghèo ốm ở phương xa, chạy cuồng chín cõi. Cầu cái vui của trời, người, giữ riêng cái lợi ích nhỏ nhen, thì cũng còn là rong ruổi ăn xin. Còn như được Bổn Tâm, thì đầy đủ dư dật. Hạt châu tên Như Ý, muốn gì được nấy. Nào ngờ tự tánh vốn tự sẵn đủ! Nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp (Lục Tổ khi ngộ đạo)! Nên diệu dụng chẳng hề thiếu hụt, thành giàu có vô biên. Một hạt Thần Châu này, mê cũng chưa từng mất, ngộ cũng chẳng từng được. Chỉ được người Trí chỉ cho, bèn tự thọ dụng không cùng, nào mượn chỗ tu chứng ư?

Một hôm, Đức Thế Tôn đưa ra một viên ngọc ma ni tùy sắc, rồi hỏi các vị Thiên Vương của năm phương rằng: “Viên ngọc này màu gì?”

Các vị Thiên Vương mỗi người nói mỗi màu khác nhau. Thế Tôn cất viên ngọc vào tay áo, rồi đưa tay lên hỏi: “Viên ngọc này có màu gì?”

Các vị Thiên Vương thưa: “Trong tay Phật không có châu, lấy chỗ nào có màu?”

Đức Thế Tôn than rằng: “Các ông sao mê mờ điên đảo lắm thế! Ta lấy hạt châu của thế gian đưa ra thì mỗi ông đều tranh nhau nói màu xanh, vàng, trắng, đỏ... Còn ta đưa hạt châu thật ra chỉ cho, lại rốt cuộc chẳng hay biết!”

Khi ấy, các vị Thiên Vương năm phương đều ngộ đạo.

Ngài Đại Châu, ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ.

Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”

Đáp rằng: “Ở chùa Đại Vân tại Việt Châu đến”.

Tổ nói: “Đến đây định có chuyện gì?”

Đáp: “Thưa, đến cầu Phật Pháp”.

Tổ đáp: “Kho báu nhà mình thì chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy rông làm chi? Ta, trong ấy một vật cũng không, ông cầu Phật Pháp nào?”

Ngài bèn làm lễ rồi hỏi: “Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải (Đại Châu)?”

Đức Mã Tổ nói: “Tức nay đang hỏi ta là cái đó. Kho báu của ông, hết thảy hiện thành, tuyệt không thiếu hụt, liền dùng tự tại, nào phải hướng ngoài tìm kiếm”.

Ngài Đại Châu ngay dưới lời nói tự rõ Bổn Tâm, chẳng do hiểu biết, vui mừng lễ tạ, hầu Tổ trong sáu năm. Về sau, viết cuốn “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận”. Tổ xem rồi bảo với đại chúng: “Ở Việt Châu có viên ngọc lớn (Đại Châu), tròn sáng trong suốt, tự tại không gì ngăn ngại”.

Ngài Ngưỡng Sơn tham lễ thiền sư Đông Tự Hội.

Thiền sư hỏi: “Ông là người xứ nào?”

Ngài Ngưỡng đáp: “Người Quảng Nam”.

Thiền sư Hội nói: “Tôi nghe ở Quảng Nam có viên minh châu trấn biển, có đúng không?”

Ngài Ngưỡng đáp: “Thưa, phải”.

Tổ Hội nói: “Châu ấy như thế nào?”

Ngài Ngưỡng nói: “Không trăng thì ẩn, có trăng thì hiện”.

Tổ Hội: “Có đem đến được không?”

Ngài Ngưỡng: “Đem đến được”.

Tổ Hội: “Sao chẳng trình ra với lão tăng?”

Ngài Ngưỡng Sơn khoanh tay bước tới, nói: “Hôm qua đến Qui Sơn cũng bị đòi hạt châu ấy! Ngay ấy không có lời để đối đáp, chẳng có lý lẽ nào để đưa ra!”

Tổ Hội nói: “Thật là sư tử con khéo hay gầm rống!”

Trăm, ngàn năm về sau, nhờ có các vị tôn túc hộ trì được hạt thần châu, chẳng do ngoài mà được, thì càng tin lời Phật chẳng có sai lầm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19702)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23961)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41218)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27504)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26571)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20192)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25771)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31318)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38577)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21437)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44258)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29825)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42202)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22139)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45756)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32109)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23956)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24391)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33919)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27682)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32133)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21064)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21580)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28064)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21435)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19498)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19245)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29182)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20622)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28299)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33183)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21375)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21550)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19376)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26394)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24825)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22384)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22554)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21238)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35322)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant