Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Thập Địa

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12522)
07. Thập Địa

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

Mục 2: An Lập Các Thánh Vị


VII. THẬP ĐỊA

Kinh: “Anan, người thiện nam đó trong Đại Bồ Đề, khéo được thấu suốt. Giác thông với Như Lai, suốt hết cảnh giới Phật, gọi là Hoan Hỉ Địa.

Thông rằng: Nói Đại Bồ Đề đó chính là “Một đường hướng thượng”, chỗ quan yếu của mệnh mạch Chư Phật. Nơi đây mà thấu suốt, đắc đại triệt ngộ, “Thấy các tướng chẳng phải tướng, bèn thấy Như Lai”. Đã thấy Như Lai, nên suốt hết cảnh giới Phật.

Cảnh giới Phật thì chỉ Phật cùng với Phật mới có thể thông suốt cùng tột, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Lấy ba Đế [Không, Giả, Trung] viên dung để tương ưng cũng chưa cùng tột. Trung Đạo thuần chân dường như không khác Bồ Đề, nhưng biết cái Trung Đạo chẳng an trụ, đó là Đại Bồ Đề vậy. Địa vị Hoan Hỉ Hạnh ở trước đầy đủ vô lượng diệu đức, mười phương đều tùy thuận, lấy chỗ công đức mà nói, nên thuộc về Hạnh. Ở đây bèn thấu suốt Vô Thượng Bồ Đề, vượt phàm vào Thánh, đã rảo bước trong cảnh Phật, đã lên quả vị nên gọi là Địa.

Bắt đầu được sự hoan hỉ của Pháp, hỉ là do thấu suốt, đắc không có gì chướng ngại, mà thật là đắc không chỗ đắc, hỉ không chỗ hỉ, chẳng phải là cái hoan hỉ của thế tình có thể suy lường nổi.

Quan Thiêm Phán Lưu Kinh Thần, nhỏ tuổi nhờ có tài mà ra làm quan, đối với Phật Pháp chưa có tin. Nhờ gặp thiền sư Chiếu Giác Tổng chỉ dẫn nên say mê Tổ Đạo.

Khi đến kinh sư, ra mắt thiền sư Huệ Lâm Xung, gặp lúc vị tăng hỏi Tổ Tuyết Đậu: “Như sao là bổn nguyên Chư Phật?”

Đáp rằng: “Sắc lạnh ngàn núi”.

Lời dứt, có tỉnh ngộ.

Hơn năm trời chờ bổ nhậm, ông tham học với Ngài Thiều Sơn Cảo. Khi sắp đi nhậm chức, từ giã Ngài, Ngài căn dặn rằng: “Ông cứ thế mà dụng tâm, lo gì chẳng ngộ. Về sau hoặc có cái cảnh giới phi thường, hoan hỉ vô lượng thì thu thập cho mau. Nếu thu thập được liền thành pháp khí. Nếu thu thập chẳng được, liền có bệnh chẳng an mà thành cái lỗi lầm thất tâm đó”.

Chẳng bao lâu ông lại đến kinh sư, theo thiền sư Chánh Giác Dật mà thưa hỏi nhân duyên.

Tổ Dật nói: “Người xưa nói “Bình thường tâm là Đạo”. Nay ông trong mười hai thời phóng quang động địa, chẳng tự biết lấy, lại hướng ngoài chạy rông tìm kiếm, ngày càng lạ càng xa!”

Ông càng thêm nghi, chẳng hiểu.

Một đêm vào thất, Tổ Dật đem chỗ trong Truyền Đăng Lục: “Quốc Vương Hương Chí hỏi Tổ Ba La Đề Tôn Giả: “Cái gì là Phật?” Tổ Đề nói: “Tánh Thấy là Phật”, ra mà hỏi ông.

Ông không nói năng được, càng nghi dữ. Bèn về chỗ ngủ, ngủ say.

Đến canh năm, tỉnh giấc, vừa chợt nhớ lại thì thấy đủ thứ tướng lạ, trong ngoài thông suốt, sáu căn chấn động, trời đất cùng quay, như mây mở trăng hiện, vui không gì hơn. Bỗng nhớ lại lời dặn dò của Tổ Thiền Sơn khi từ biệt mà nén lại, đợi đến sáng mới thuật lại chỗ biết được.

Ông nói: “Chẳng cần thực hành ư?”

Tổ Dật nói: “Cái ấy là việc gì mà lại nói đến thực hành?”

Ông lặng im khế hợp.

Về sau, có viết Phát Minh Tâm Địa Tụng tám bài, và thiên Minh Đạo Dụ Nho để cảnh tỉnh thế gian.

Như chỗ chứng của Ông Lưu, đối với Sơ Địa chưa biết ra sao, nhưng cái hoan hỉ phi thường là đã chẳng cô phụ sự thọ ký của Ngài Thiều Sơn. Cũng là việc hiện thân Tể Quan mà đến đó ư?

Kinh: “Tánh Khác nhập vào Đồng, tánh Đồng cũng diệt, gọi là Ly Cấu Địa.

Thông rằng: Ở trước thì Tâm, Phật hai cái đều Đồng, số lượng tiêu diệtchỉ quy về một cái Tánh Thiện của ta mà luận. Nay thì tánh Khác nhập vào Đồng là nêu bày chúng sanh, quốc độ đồng một Tánh đây. Rắn, rồng lẫn lộn, phàm Thánh xen nhau, đó là cảnh giới của Bồ Tát. Nếu chẳng giác thông suốt ý chỉ chẳng dơ chẳng sạch của Như Lai thì chưa dễ thấu đạt chỗ này. Nếu thấy Tánh chúng sanh là khác, tức thấy chúng sanh dơ. Nay đã nhập vào Đồng là đã lìa cái dơ của bờ mé dơ vậy. Nếu thấy chúng sanh tánh Đồng thì tánh Đồng chưa mất, ấy là pháp dơ. Nay tánh Đồng cũng diệt mất, tức là lìa cái dơ của bờ mé sạch vậy. Cái Ly Cấu Địa này là chỗ tôn trọng trong địa vị Bồ Tát: dứt lìa cái dơ của bờ mé thanh tịnh, trở về Bản Thể vốn không dơ của Như Lai, chứ chẳng phải lấy sự lìa cái dơ của bờ mé dơ mà có thể bàn đến.

Nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham : “Như sao là Phật?”

Đáp : “Trâu đá”.

Hỏi : “Như sao là Pháp?”

Đáp : “Trâu đá con”.

Hỏi : “Như vậy tức chẳng đồng ư?”

Đáp : “Hợp chẳng được”.

Hỏi : “Vì sao hợp chẳng được?”

Đáp : “Không có cái Đồng để đồng với thì hợp cái gì?”

Lại có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Tuyết phủ ngàn núi, vì sao đỉnh cô chót ấy chẳng trắng?”

Tổ Sơn nói : “Phải biết có cái khác trong cái khác”.

Hỏi : “Như sao là khác trong khác?”

Tổ Sơn nói : “Chẳng sa vào màu sắc các núi”.

Tổ Thụy Nham khéo nói cái Đồng, Tổ Tào Sơn khéo nói cái Khác. Hợp hai tắc trên mà xem, ắt biết tánh Khác nhập vào Đồng thì không có cái Đồng nào để đồng. Lìa dơ thì thành khác, hóa ra là Khác ở trong Khác. Ở đây há có thể lấy sự nông cạn mà nhìn vào được ư?

Kinh : “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra, gọi là Phát Quang Địa.

Thông rằng : Như tấm gương tròn lớn bụi bặm không còn, đã gọi được là thanh tịnh, nhưng chẳng phải thanh tịnh cùng tột vì còn Pháp Cấu [Sự dơ do chấp Pháp]. Pháp Cấu đã lìa, cái Sở Tri Chướng sạch, rồi sau cái sáng suốt của Bổn Giác sanh ra, từ Định phát Huệ, tự có một phần ánh sáng rực rỡ, chẳng phải sự Giác Chiếu tầm thường có thể so sánh. Bài kệ ở trước đã nói: “Tịnh cực, sáng thông suốt. Lặng chiếu trùm hư không”, cảnh giới như thế thì mỗi mỗi đều tự sáng tỏ, vật vật đều tự suốt thông, há chỗ ấy còn có sự lờ mờ ư?

Tổ Động Sơn hỏi Ông Mật Sư Bá: “Làm gì thế?”

Đáp : “Cầm kim”.

Tổ Sơn nói: “Việc cầm kim ra làm sao?”

Đáp : “Mỗi kim đều như nhau”.

Tổ Sơn nói : “Hai mươi năm đồng hành, lại nói lời thế ư?”

Ông Mật hỏi: “Còn trưởng lão thì thế nào?”

Tổ Sơn nói: “Đại địa lửa phát!”

Ngài Thiên Đồng nêu rằng:

“Đại địa lửa phát

Trong chẳng dung sợi tóc

Nam Hải, Côn Lôn

Trời lạnh chẳng mang vớ

Tổ Tổ truyền nhau

Một thứ dơ uế!”.

Đó là chỉ ra cái Chân Ngộ đã phát, liền cùng Phật, Tổ tâm tâm ấn nhau. Cái Phát Quang Địa này chẳng thể dễ dãi đàm luận.

Hòa Thượng Ẩn Sơn có bài kệ:

“Ba gian nhà lá xưa nay

Một đạo thần quang, vạn cảnh nhàn

Chớ đem phải quấy ra xét tới

Phù sinh xuyên tạc, há tương quan?”.

Chỗ Ngài nói chẳng phải là “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra” đó ư?

Kinh: “Sáng suốt cùng tột, Giác đầy khắp, gọi là Diệm Huệ Địa.

Thông rằng: Sáng suốt đã cùng tột, Giác đã đầy khắp, giống như đống lửa lớn, đụng vào là cháy thiêu, cả thảy bóng duyên (duyên ảnh) đều thiêu tuyệt. Không chỉ nói là Huệ mà nói Diệm Huệ [Huệ Cháy Sáng] là Huệ đến tột mức vậy. Cái ấy chẳng thể gần, tức là Bát Nhã Trí.

Như con trùng rất nhỏ nhặt, chỗ nào cũng đậu vào, nhưng không thể đậu trên ngọn lửa cháy sáng. Cái thức lự [Tâm luân hồi] chốn chốn đều duyên ra, nhưng không thể duyên ra trên Trí Bát Nhã, nên gọi là Diệm Huệ Địa.

Tổ Bàn Sơn thượng đường: “Cái tâm-nguyệt một mình tròn vẹn kia, ánh sáng nuốt muôn tượng. Ánh sáng chẳng phải chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn. Ánh sáng và cảnh đều mất, đó là vật chi?”

Tổ Động Sơn riêng nói rằng: “Ánh sáng và cảnh chưa mất, đó là vật gì?”

Tổ Bửu Phước đem ra hỏi Ngài Trường Khánh: “Theo hai vị thì rốt cuộc chưa tuyệt hết, vậy làm sao tuyệt hết đây?”

Ngài Trường Khánh lặng im giây lâu.

Tổ Phước nói: “Rõ ràng ông hướng vào trong hang quỷ mà sanh nhai!”

Ngài Khánh hỏi: “Ông lại làm sao?”

Tổ Phước nói: “Hai tay đỡ con trâu nước cao quá đầu gối!”

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Đều mất, chưa mất, đoạt người, đoạt cảnh. Vì sao Tổ Bảo Phước không chịu Ngài Trường Khánh? Thái bình vốn do tướng quân đem lại, chẳng để tướng quân thấy thái bình”.

Theo chỗ thấy của Tổ Bửu Phước thì Diệm Huệ Địa cũng không cho yên níu, huyền lại càng huyền vậy.

Kinh: “Hết thảy có Đồng, có Khác không thể đến được, gọi là Nan Thắng Địa.

Thông rằng: Trí của bậc chưa vào Địa gọi là Khác, Trí của bậc Đăng Địa gọi là Đồng, tức như trong chỗ vốn Đồng lại có Đồng, Khác. Lìa dơ (Ly Cấu) là thanh tịnh, mà thanh tịnh cùng tột thì sáng suốt sanh ra. Phát ra ánh sáng (Phát Quang) là sáng suốt, mà sáng suốt cùng cực thì Giác đầy khắp. Chưa đến hết mười phần thì còn có Đồng và Khác để nói; đã đến hết mười phần thì không còn Đồng, Khác để chỉ ra. Như vàng đã có màu như cũ thì đâu còn thêm bớt, theo đâu mà chỉ ra đó là Đồng, nương đâu mà chỉ ra đó là Khác? Đã không có cái Khác để chỉ, tức phàm tình không thể đến. Đã không có cái Đồng để chỉ, tức Thánh giải không thể đến.

Phàm tình có thể đến, ắt cái phàm được hơn thắng. Thánh giải có thể đến, ắt cái Thánh được hơn thắng. Nay thì hết thảy Đồng, Khác, Thánh, Phàm, Trí, Lự đều chẳng thể đến. Cái đến đã không có thì cái gì vượt thắng đây? Nên gọi là Nan Thắng Địa.

Đức Phật nói: “Nếu như có một pháp hơn cả Niết Bàn, ta cũng nói là như mộng huyễn”.

Niết Bàn như thế là Pháp Tối Nan Thắng vậy.

Tổ Lâm Tế đến Ngài Phụng Lâm.

Ngài hỏi: “Có chuyện nhờ nhau, hỏi được chăng?”

Tổ Tế nói: “Sao lại khoét thịt làm vết thương?”

Ngài Lâm nói: “Biển trăng ngần không ảnh. Cá (lội) chơi riêng tự mê!”

Tổ Tế nói: “Biển trăng đã không ảnh, cá (lội) chơi sao lại mê?”

Ngài Lâm nói: “Xem gió nhìn sóng dậy. Ngắm trăng mặc buồm trôi”.

Tổ Tế nói: “Cô luân [Vầng đơn độc] độc chiếu non sông lặng. Hú dài một tiếng đất trời sầu”.

Ngài Lâm nói: “Cứ đem “Ba Tấc” sáng trời đất. Một câu gặp chuyện (lâm cơ) nói ra xem”.

Tổ Tế nói: “Đường gặp kiếm khách nên trình kiếm. Chẳng phải nhà thơ chẳng tặng thơ”.

Ngài Lâm bèn thôi.

Tổ Tế bèn tụng rằng:

“Đại đạo bặt đồng

Tùy ý Tây Đông

Lửa đá chẳng kịp

Điện quang không thông”.

Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn: “Lửa đá chẳng kịp, điện quang không thông thì từ xưa Chư Thánh lấy gì mà vì người?”

Ngài Ngưỡng nói: “Ý Hòa Thượng thế nào?”

Tổ Quy rằng: “Chỉ có lời nói, toàn không thực nghĩa”.

Ngài Ngưỡng nói: “Chẳng phải vậy”.

Tổ Quy nói: “Vậy ông thế nào?”

Ngài Ngưỡng nói: “Quan chẳng cầm kim, riêng thông xe ngựa”.

Đại để, Lâm Tế cùng Phụng Lâm tương kiến, tuy là điển quang, lửa đá không thể thí dụ cho nổi, mà Ngưỡng Sơn lại cho là riêng thông xe, ngựa. Chính đó là chỗ nói là “Ngộ thì Ca Diếp chẳng che giấu, chẳng ngộ thì Như Lai có mật ngữ” vậy.

Cái chỗ “Hết thảy Đồng, Khác không thể đến được” này nếu chẳng phải khế ngộ chân thực thì ai rõ được chỗ Nan Thắng của nó ư?

Kinh: “Tánh Chân Như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là Hiện Tiền Địa.

Thông rằng: Đồng, Khác chẳng đến được, không thể tạo tác. Đã không tạo tác, đó là Chân Như. Tánh Chân Như này, nơi mê chẳng giảm bớt, nơi ngộ chẳng tăng thêm. Chỉ vì Tình Kiến ô nhiễm mà chẳng bày lộ rỡ ràng. Duy chỉ thanh tịnh cùng tột, sáng suốt cùng tột liền “tròn vo vo, sáng rỡ rỡ, trong leo lẻo” không thể cầm nắm. Cái thể tịch diệt liền được hiện tiền, nên gọi là Hiện Tiền Địa.

Ngài Đại An sắp qua đất Hồng Châu, trên đường qua khỏi huyện Thượng Nguyên thì gặp một ông già bảo rằng: “Ông sang Nam Xương sẽ có chỗ đắc”.

Ngài An bèn đến Tổ Bá Trượng, làm lễ mà hỏi: “Kẻ học nhơn muốn cầu biết Phật, cái ấy là gì?”

Tổ Trượng nói: “Thật như cỡi trâu lại tìm trâu!”

Ngài An ngay nơi lời nóitỉnh ngộ, hỏi rằng: “Biết được rồi thì như thế nào?”

Tổ Trượng nói: “Cũng giống cỡi trâu về nhà”.

Ngài An nói: “Chưa rõ trước sau giữ gìn thế nào?”

Tổ Trượng rằng: “Như người chăn trâu cầm roi trông coi, khiến chẳng động đến lúa mạ của người”.

Ngài Đại An từ đó lãnh nhận ý chỉ, chẳng còn tìm kiếm, sau kế pháp trụ trì ngọn Quy Sơn.

Ngài thượng đường, nói: “Hết thảy các ông đều tìm đến An này, để tìm kiếm cái gì thế? Như muốn làm Phật, chính ông tự là Phật. Vác Phật chạy qua nhà người, khác nào con nai khát nước đuổi theo bóng nắng, bao giờ mới được tương ưng đây? Ông muốn làm Phật, chỉ việc không có những thứ điên đảo, bám níu, vọng tưởng, ác giác, dơ sạch là cái tâm chúng sanh, thì đó bèn là Sơ Tâm Phật Chánh Giác. Còn hướng đi đâu nữa mà toan tính? Bởi thế mà An này ở Quy Sơn ba mươi năm, ăn gạo Quy Sơn, đi phân Quy Sơn mà chẳng học thiền Quy Sơn. Chỉ trông coi một con trâu đực, nếu lạc đường vào cỏ liền nắm mũi kéo lui, vừa phạm đến lúa mạ người liền roi vọt ngay, đã lâu điều phục. Khá thương kiếp sanh ra chịu lời lẽ của người, như nay hóa thành con trâu trắng bày lộ rỡ ràng, thường ngay trước mặt, suốt ngày bày hiện sờ sờ ra đó, đuổi chẳng chịu đi.

“Này các ông, mỗi người đều hiện đang tự có vật báu vô giá, từ cửa mắt phóng ánh sáng soi suốt đất đai, sông núi. Nơi cửa tai phóng ánh sáng, gồm góp hết thảy tiếng vang lành dữ. Sáu cửa như thế, ngày đêm thường phóng ra ánh sáng rực rỡ, cũng gọi là Phóng Quang Tam Muội.

“Ông chẳng tự biết giữ lấy, nó hiện ẩn trong thân tứ đại, giúp giữ trong ngoài, khiến chẳng nghiêng ngã. Ví như người mang nặng qua cầu độc mộc, nó khiến khỏi trợt chân. Hãy nói đó là vật gì kham giữ mà được như thế? Lại không có mảy tơ để có thể thấy! Há chẳng nghe Hòa Thượng Chí Công nói: “Trong ngoài tìm kiếm rốt lại không. Trên cảnh rộn ràng toàn thực có”. Trân trọng!”

nhà sư đến hỏi Ngài Đại Ninh Khoan: “Như sao là trâu trắng sờ sờ?

Ngài Khoan lấy đũa gắp lửa khươi trong lò, nói: “Hiểu ư ?”

Nhà sư nói: “Dạ, chẳng hiểu”.

Ngài nói: “Đầu chẳng thiếu, đuôi chẳng dư”.

Hai vị tôn túc trên nói việc tánh thanh tịnh bày lộ rõ ràng một cách vui khoái, đáng cùng nhau lên Hiện Tiền Địa vậy.

Kinh: “Cùng tột bờ cõi Chân Như, gọi là Viễn Hành Địa.

Thông rằng: Thanh tịnh chưa cùng tột, sáng suốt chưa cùng tột, cái Đồng, Khác có thể đến thì chẳng thể gọi là bờ cõi Chân Như. Đồng, Khác đã mất, sanh diệt đã diệt, Chân Như vô vi đã bày lộ rõ ràng đã lâu, trong ngoài rỗng suốt, tột mười phương thế giới đều là bờ cõi Chân Như, khắp hư không, đầy Pháp Giới, toàn thể trình bày hiển lộ thì chẳng chỉ có hiện tiền mà thôi vậy.

Lý vốn không bờ mé, cái bờ cỏi không bờ mé kia mới là bờ cõi Chân Như. Chân Như không bờ mé thì hành cái Hành của Chân Như, há có xa gần ư ? Gọi đó là Viễn Hành là để rõ rằng sức người chẳng thể đến được.

Hễ cái mà hành có thể đến được thì tuy tích lũy qua năm tháng, cũng chẳng gọi là Viễn [Xa]. Chỉ cái mà hành không thể đến được mới gọi là Chân Viễn. Giống như thí dụ của Trang Tử, ở nước Kiến Đức, trông ra chẳng thấy bến bờ, đi khắp mà không chỗ cùng tột. Tiễn đưa người đi, đều đến bến bờ rồi lui, từ đây người xa vậy. Thí dụ đủ hình dung cái Địa này.

nhà sư hỏi Thượng Lam Hòa Thượng: “Đồng tử Thiện Tài sau khi ra mắt đức Văn Thù, vì sao lại qua phương Nam?”

Ngài nói: “Học ở nơi nhập thất. Biết mới khắp suốt thông”.

Nhà sư hỏi: “Đến thành Tô Ma vì sao Đức Di Lặc trở lại bảo ra mắt Đức Văn Thù?”

Ngài nói: “Đạo rộng không bờ, gặp người bất tận”.

Ngài Đầu Tử nêu ra rằng: “Đạo không mê, ngộ; Pháp chứng do thầy. Chẳng trụ Thánh, phàm; trang nghiêm diệu hạnh. Bởi thế Văn Thù khiến đi lên núi Tu Di, bờ biển gặp thầy, chợ triền lễ bạn. Hoặc núi đao, phường điếm, tù tội, cung ma. Hoặc đồng nữ, đồng nam, Cù Di Thánh Hậu. Di Lặc khảy móng tay, Phổ Hiền đích thân chiêm ngưỡng. Trở lại ra mắt Văn Thù lại có chuyện gì đây? Tin thì biết: khắp nơi là bạn, đạo rộng không bờ, chẳng mờ dấu sáng, khắp chốn cùng tột nhiệm mầu. Này các nhân giả, lại biết chăng còn có một người mà vì sao Thiện Tài chẳng đến ra mắt (tham)? Thử nói đó là người nào?”

Giây lâu, Ngài nói:

“Đầy đầu tóc bạc lìa hang núi

Khuya tối xuyên mây vào chợ triền”.

Tụng rằng:

“Mặt trời lên không, khắp thấp cao

Chi nhánh Côn Luân các sông vào

Núi xuân mây gió hòa vô tận

Nhạn bỏ về Nam đất trời sầu”.

Đây có thể làm khuôn mẫu của Viễn Hành Địa, vì thấu suốt hết thảy pháp, cùng tột bờ cõi Chân Như vậy.

Kinh: “Một Tâm Chân Như gọi là Bất Động Địa.

Thông rằng: Cùng tột bờ cõi Chân Như, phóng ra thì khắp cùng vũ trụ. Một Tâm Chân Như, cuốn lại thì không vết. Hành không vết tích, đó gọi là Viễn Hành. Đã cùng tột bờ cõi Chân Như tức là tròn vẹn cái thể, ứng hiện muôn loài mà Chân Như chẳng động.

Cái Bất Động Địa này là trong chỗ Viễn Hành mà thấy vốn chẳng động vậy. Bờ cõi (tế) chính là Tâm, Tâm chính là bờ cõi. Mé (tế) trước, mé giữa, mé sau, ba bờ mé đều bất khả đắc. Quá khứ, hiện tại, vị lai, ba tâm đều bất khả đắc. Rốt đây toàn một Chân Như thì có cái gì là đi, gì là dừng, gì là động, gì là bất động ư? Tuyệt không động tịnh, thế mới có thể nói là Chân Bất Động vậy.

Thiền sư Đông Kinh Tuấn ban đầu ra mắt Tổ Đầu Tử.

Tổ hỏi: “Đêm qua ngụ chốn nào?”

Ngài Tuấn nói: “Đạo tràng bất động”.

Tổ nói: “Đã nói bất động, do gì đến đây?”

Ngài Tuấn nói: “Đến đây há có động sao?”

Tổ nói: “Thì vốn ngụ chỗ chẳng dính bám”.

Bèn im lặng hứa khả cho.

Tổ Tịnh Từ Phật Hạnh thượng đường, nói: “Nhạn qua trời không, ảnh lồng nước lạnh. Nhạn không có ý để lại dấu vết, nước không có tâm lưu giữ bóng hình. Được là như thế mới nên mua giày cỏ du phương. Bởi vậy, mới nói “Động thì bóng liền hiện, biết tức thì băng sanh” Còn chẳng động, chẳng biết thì thật ở trong Nước Chết [Ngoan Không]. Ông Lão Tiến Phúc [Phật] xuất đầu chẳng được thì hãy để đó, thế ông A Dục Vương ngày nay lại làm sao?”

Hướng đạo, chớ đi đường dưới núi

Quả nhiên vượn hú tiếng đoạn trường.

Bất Động Địa đây cần phải tự thân thấu đến một lần mới được. Chẳng thế thì mấy ai không ngồi trong Nước Chết mà làm kế sống!

Kinh: “Phát cái Dụng Chân Như, gọi là Thiện Tuệ Địa.

“Anan, các vị Bồ Tát đó từ đây về trước công hạnh tu tập đã xong, công đức viên mãn. Cũng gọi Địa này là Tu Tập Vị.

Thông rằng: Từ Tâm Chân Như phát cái Dụng Chân Như. Đó là Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí, Nhất Thiết Trí, Tứ Vô Ngại Trí diễn nói vô lượng a tăng kỳ các nghĩa khôngcùng tận. Làm đại pháp sư khắp độ sanh linh, Trí Bi đồng vận dụng, ứng thời hợp tiết, nên gọi là Thiện Huệ.

Diệm Huệ Địa ở trước thì chỉ nói “Ánh sáng rực rỡ của chính mình”, nay Thiện Huệ Địa thì lấy thiện pháp ban bố cho người, hiển bày cái Dụng của Huệï nên chẳng đồng.

Từ Viễn Hành Địa đến Bất Động Địa thì đã chứng Tịch Diệt, Vô Công Dụng Đạo sao còn gọi Địa này là Tu Tập Vị? Vì sau Thập Địa công đức viên mãn mà so ra thì còn thiếu đôi phần nên gọi Địa này là Tu Tập Vị. Nghĩa là bắt đầu phát cái Dụng của Huệ, chưa quên cái Huệ, so với Pháp Vân Địa trùm khắp không thiếu không dư, thì hình như còn khoảng cách vậy. Lại nữa, đây tu mà không tu, tập mà không tập, như thuyền sắp đến bờ, sào, chèo chẳng dùng mà vẫn còn trong sự vận hành vậy.

Ngài Ngưỡng Sơn một hôm đang nằm, mộng thấy vào nội viện của Đức Di Lặc, mọi vị trí đều đủ người, chỉ có tòa Thứ Hai còn trống. Ngài Ngưỡng Sơn bèn đến ngồi.

Có một vị Tôn Giả bạch chùy [Đánh bản], nói: “Nay là Đệ Nhị Tòa thuyết pháp”.

Ngài đứng lên bạch chùy, nói: “Đại thừa pháp, lìa Tứ Cú, tuyệt Bách Phi, nghe kỹ, nghe kỹ!”

Đại chúng giải tán.

Khi tỉnh dậy, Ngài kể lại cho Tổ Quy Sơn nghe.

Tổ nói : “Ông đã vào Thánh Vị”.

Ngài bèn làm lễ.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Mộng về được dịp thăm kỳ cựu

Bên phải chư Thánh ngồi thật đông

Từ bi chẳng sụt, đánh bản kêu

Thuyết pháp Vô Úy, sư tử rống

Tâm an như biển, lượng chứa như đấu

Mắt cá giao lệ rơi, ruột trai phanh lòi ngọc

Lời mộng ai hay lộ cơ ta

Ông lão nên cười việc bày xấu nhà mình

Lìa “tứ cú” tuyệt “bách phi”

Cha con thầy Quy bệnh hết chữa!”.

Ngài Ngưỡng Sơn trong mộng phát cái Dụng Chân Như, nào mượn tu tập. Tổ Quy Sơn tự mình ấn chứng cho. Do đó mà biết: Nhân Vị thì đã liễu, còn Tín Vị không đủ nói vậy.

Kinh: “Bóng Từ mây Diệu trùm biển Niết Bàn, gọi là Pháp Vân Địa.

Thông rằng: Công đức Trí Huệ viên mãn, không còn tự lợi, thuần ròng lợi tha nên bóng mát của đại từ đầy ắp khắp Pháp Giới. Vô Tâm, Vô Duyên mà ứng với tâm duyên tất cả. Ban rải lợi ích thấm nhuần mà vốn tịch diệt không tạo tác. Như mây trùm trải vô tâm, che khắp tất cả.

Bảo rằng mây Diệu tức cái Diệu của Tánh Giác diệu minh. Từ vốn là tự Diệu, chẳng mượn tu tập nên gọi là che trùm biển Niết Bàn vậy. Tự Tánh Niết Bàn, vốn không sanh diệt, mây từ của biển Giác xứng Tánh mà khởi ra, cũng không sanh diệt. Tất cả chúng sanh vốn ở trong Niết Bàn, lại khiến chúng sanh chứng quả Niết Bàn: như thế mà che, như thế mà trùm, không thiếu không dư mới có thể xưng là Diệu vậy.

Pháp mà thí dụ như mây vì Pháp vốn vô tâm. Mây mà tương hệ với Pháp thì tức mây tức Pháp, nên chẳng nói là cái Dụng của Huệ mà chỉ nói là mây. Vì đã hồn đồng tạo vật, chẳng còn cái Thấy có hai.

Pháp Vân Địa này gần với Phật Địa, gọi là quán Đảnh Bồ Tát Vị.

Đức Lục Tổ khai thị đại chúng rằng: “Này các thiện tri thức, nếu muốn thể nhập pháp giới thậm thâm cùng Bát Nhã Tam Muội, hãy tu hạnh Bát Nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã liền được thấy Tánh. Phải biết kinh này công đức vô lượng vô biên, trong kinh rõ ràng tán thán không thể nói hết. Pháp môn đây là Tối Thượng Thừa, vì người đại trí mà nói, vì người thượng căn mà nói. Người ít căn, ít trí nghe qua sanh lòng chẳng tin. Vì sao thế?

“Ví như rồng lớn làm mưa ở cõi Diêm Phù Đề thì thành, ấp, xóm làng thảy đều trôi hết như cỏ lá trôi dạt, nhưng mưa ở biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt. Như người Đại Thừa, như người Tối Thượng Thừa nghe thuyết kinh Kim Cang thì Tâm khai tỏ ngộ. Do đó mà biết Bổn Tánh tự có Trí Bát Nhã, tự dùng Trí Huệ thường quán chiếu, không mượn nhờ văn tự. Ví như nước mưa, chẳng phải từ trời mà có, nguyên là do rồng tạo ra, khiến hết thảy chúng sanh, hết thảy thảo mộc, hữu tình, vô tình đều đã thấm nhuần. Trăm sông, ngàn suối đều vào biển cả, hợp làm một thể. Bản Tánh chúng sanh tức là Trí Huệ Bát Nhã cũng lại như thế.

“Này các thiện trí thức! Người căn ít nghe qua Đốn Giáo này đây thì cũng như cỏ cây, căn tánh nhỏ mà bị mưa lớn ắt đều nghiêng ngã, chẳng thể tăng trưởng. Người ít căn cũng như vậy đó, vốn có Trí Bát Nhã không khác gì người đại trí, vậy cớ sao nghe pháp chẳng tự khai ngộ? Bởi vì tà kiến nặng nề ngăn ngại, gốc rễ phiền não sâu dày. Giống như đám mây lớn che mặt trời, nếu không được gió thổi đi thì ánh sáng mặt trời chẳng hiện.

“Cái Trí Bát Nhã vốn không có lớn, có nhỏ. Chỉ vì tất cả chúng sanh tâm họ mê ngộ chẳng đồng. Mê lầm cái Tâm, ở ngoài mà thấy, tu hành tìm Phật, chưa ngộ Tự Tánh tức là căn ít. Như khai ngộ Đốn Giáo, chẳng chấp vào bên ngoài mà tu, chỉ trong Tự Tâm thường khởi chánh kiến, trần lao phiền não thường chẳng có thể nhiễm dính, tức là Thấy Tánh.

“Này các thiện trí thức, trong ngoài chẳng trụ, đến đi tự do, hay trừ tâm bám nắm, thấu suốt không ngại. Thường tu hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã vốn không có gì sai khác”.

Đức Lục Tổ chẳng biết một chữ mà thuyết pháp như mây, như mưa. Lại có thể phân biệt chỗ khác nhau của căn khí lớn, nhỏ nơi người nghe pháp, cũng đủ bổ sung chỗ chưa nói rõ thêm về Bậc Thập Địa vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27192)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21783)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22248)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23626)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20447)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20062)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21955)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24789)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31006)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26548)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21363)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23244)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38167)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18812)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20001)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19060)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23190)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29605)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18731)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18873)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19702)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22980)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39291)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26116)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20123)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18872)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24090)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22917)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21029)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26875)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20692)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26277)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23351)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24699)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20425)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23924)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant