Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Bảy: Các thiện căn phát sinh

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10805)
Phần Bảy: Các thiện căn phát sinh



PHẦN BẢY
CÁC THIỆN CĂN PHÁT SINH

Hành giả khi thực hành Chỉ Quán như vậy, do quán "tùng giả nhập không, thì trong lúc tọa thiền, thân tâm sáng suốt thanh tịnh, lúc đó sẽ có các thứ thiện căn phát sinh, cần nên nhận biết.

Những thứ thiện căn phát sinh có hai thứ:

1)Những thiện căn ở ngoài như: bố thí, trì giới, hiếu thuận, cúng dường Tam Bảohọc hỏi Phật Pháp... nếu không chân chánh tu hành theo Phật pháp thì có thể lẫn lộn với Ma cảnh.

2)Những tướng thiện căn phát sanh tự bên trong, nghĩa những thiện căn do áp dụng các pháp môn thiền định.

Phân biệt các tướng nầy chia làm ba phần:

a/ Chỉ rõ các tướng thiện căn phát sinh:

Có năm thứ khác nhau:

1- Tướng thiện căn phát sanh trong lúc thực hành điều hòa hơi thở, hành giả do khéo thực hành Chỉ Quán nên thân tâm điều hòa, vọng niệm dừng nghỉ, nhân đó tự thấy tâm lân lân vào định, phát sinh những định dục giới và định vị đáo địa... định tâm yên ổn, thân tâm rỗng không vắng lặng, không thấy có tướng mạo. Về sau, hoặc trải qua một vài lần tọa thiền, cho đến một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, giữ vững định tâm, không lùi không mất, thì ở trong định bỗng thấy thân tâm phát ra tám thứ cảm xúc, nghĩa là thấy thân có các tướng: đau, ngứa, lạnh, nóng, nhẹ nhàng, nặng nề, rít, trơn...Trong lúc tám cảm xúc phát ra, thân tâm vẫn yên ổn trong định, nhẹ nhàng, vui khoẻ, khoan khoái, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được. Được như thế thì biết đó là tướng thiện căn thiền định căn bản đương phát ra trong lúc điều hòa hơi thở. Hành giả hoặc khi trong định dục giới và định vị đáo ?i?a, bỗng nhiên nhận rõ hơi thở ra vào dài, ngắn, các lỗ chân lông khắp thân thể đều rỗng thưa và dùng được tâm nhãn thấy cả ba mươi sáu vật trong thân, cũng như mở kho thấy các thứ thóc, đậu.tâm rất vui mừng, vắng lặng yên ổn. Đó là tướng thiện căn đặc thắng phát sinh trong lúc điều hòa

hơi thở.

2- Tướng thiện căn phát sinh do phép quán bất tịnh. Người tu hành, nếu trong lúc ở trong định dục giớivị đáo địa, thân tâm rỗng không vắng lặng, bỗng thấy thân người khác chết, phình lên hư nát, tan ra nước, chảy đi, còn lại một đống xương trắng, và tâm vừa thương vừa mừng, nhàm chán những điều ưa thích trước kia, đó là tướng thiện căn chính tưởng phát ra. Hoặc trong lúc nhâ?p định, bỗng thấy những vật bất tịnh trong thân, cả mình phình trướng tan nát, chỉ còn xương trắng từ đầu đến chân. Thấy như thế rồi, định tâm an lành, giác ngộ vô thường, nhàm chán ngũ dục, không chấp ngã nhân, đó là tướng thiện căn bội xã phát ra. Hoặc ở trong định, thấy cả trong thân, ngoài thân, tất cả loài cầm thú, cho đến áo mặc, đồ ăn, nhà cửa, núi rừng.. đều bất tịnh, đó là tướng thiện căn đại bất tịnh phát ra.

3- Tướng thiện ăn do tự tâm phát sinh, Hành giả nhân thực hành Chỉ Quán, được các định dục giới, hoặc định vị đáo địa, bỗng nhiên phát tâm nghĩ thương chúng sanh, hoặc duyên với việc người thân được vui phát sanh định tâm, trong tâm vui vẽ, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được, hoặc duyên với việc người trung gian, kẻ thù, cho đến thập phương chúng sanh thuộc các loài khác, thấy họ được vui vẻ mà phát định tâm. Đến lúc xuất định, tâm thường vui vẻ, thấy bất cứ người nào, nhan sắc thường hòa nhã. Đó là tướng thiện căn do từ tâm phát ra. Về bi, hỉ và xả cũng có những tướng thiện căn phát sinh như từ tâm vậy.

4- Tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh. Hành giả nhân lúc thực hành Chỉ Quán, khi được các định dục giới và định vị đáo địa, bỗng được giác ngộ, xét tìm các nhân duyên vô minh, hành...trong ba đời không thấy có nhân, có ngã, phá được các kiến chấp, trí tuệ mở bày, tâm sinh pháp hỷ, không còn nghĩ những việc thế gian, hoặc xét trong năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, không thấy nhân ngã. Đó là tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh.

5- Tướng thiện căn do niệm Phật phát sanh. Hành giả khi đắc định, trong tâm vắng lặng, bỗng nhớ nghĩ đến công đức tướng hảo của chư Phật, không thể nghĩ bàn. Cho đến những tướng thập lực, vô úy, bất cộng, tam muội, giải thoát thần thông biến hóa, phổ độ chúng sanh, và vô lượng vô biên công đức của chư Phật đều không thể nghĩ bàn. Phát khởi ý niệm như thế, thì sanh tâm kính yêu, thân tâm vui vẻ, thanh tịnh yên ổn, không có các ác tướng. Khi xuất định rồi, thân thể nhẹ nhàng, công đức tự giác rất lớn. Đó là thiện căn do niệm Phật phát sanh.

Lại nữa, hành giả nhân lúc tu Chỉ Quán, thân tâm vắng lặng trong sạch, hoặc phát ra những tướng vô thường, khổ, không, vô ngã, những tướng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiện, cho đến những tướng không, vô tướng, vô tác và được các Bồ-?ề đạo phẩm, các Ba-la-mật, các thần thông biến hóa.. Đó đều là những tướng thiện căn do các pháp môn phát sanh. Vì thế trong kinh có dạy: "Kiềm chế tâm lại một nơi thì không việc gì không làm xong."

b/Phân biệt chân, ngụy:

Đoạn nầy chia làm hai phần:

1- Nhận rõ những tướng phát sanh do thiền định tà ngụy. Hành giả khi phát ra những thiền định như trên, hoặc nhân những pháp phát ra trong thiền định, mà thân tâm lay động, hoặc thân nặng như có vật đè lên, hoặc thân nhẹ như muốn bay lên trên không, hoặc thân hình như xoay tròn, hoặc thân mệt mỏi khó chịu, hoặc nghe lạnh buốt, hoặc nghe nóng bừng, hoặc thấy những cảnh giới ky? lạ, hoặc tâm mờ tối, hoặc khởi các ác niệm, hoặc tâm bị tán loạn, nghĩ các việc phức tạp, hoặc vui mừng nhảy nhót, lo rầu đau thương, hoặc có những cảm xúc làm cho mình ghê rợn, hoặc vui quá say mê. Khi phát sanh những tà pháp như thế, thì đó là những tướng thiền định tà ngụy. Nếu người ưa đắm những tà ngụy đó thì phần nhiều bỏ mất sơ tâm, hóa ra điên cuồng, lạc vào các thứ ngoại đạo, có khi các quỷ thần . biết hành giả chấp trước tà pháp, lại giúp thêm sức, phát huy các tà định, làm cho hành gia có biện tài, thần thông, lừa gạt thế gian, làm cho nhiều người tín phục, mà trong tâm thì vẫn điên đảo, chuyên làm những việc quỷ thần, mê hoặc người đời. Người tu hành như thế, quyết không gặp được Phật và phải đọa trong ác đạo quỷ thần. Nếu lại làm nhiều việc ác thì phải đoạ địa ngục.

Vì thế ha?nh giả thực hành Chỉ Quán, nếu nhận được ác tướng thiền định tà ngụy, liền khước từ ngay. Khước từ bằng cách nào? Nếu biết là giả dối thì dùng chánh tâm không nhận, không trước, các tướng đó sẽ tiêu diệt, hoặc dùng chánh quán mà phá trừ, các tướng ấy sẽ diệt vong.

2 - Nhận rõ các tướng của thiền định chân chánh. Hành giả nếu trong lúc tọa thiền không có những tướng tà ngụy như trên, khi mỗi tiếng thiền định phát ra, liền biết nó kết hợp với định tâm, trong tâm rỗng sáng thanh tịnh, vui đẹp yên lặng, không có các điều che lấp, thiện căn phát sanh thì lòng tin kính càng tăng trưởng, trí tuệ rõ ràng, thân tâm như hòa, rỗng không vắng lặng, thoát ly thế gian, vô vi, vô dục, xuất định nhập định tự tại, tự do. Đó là tướng thiền định chân chính phát ra. Ví như thân cận người ác thì thường bị va chạm chọc tức. Ngược lại, thân cận người lành thì càng lâu, quan hệ càng tốt đẹp. Hành giả cần phân biệt tà chánh rõ ràng để khỏi bị lầm lạc.

c/Dùng chỉ quán để tăng trưởng các thiện căn:

Nếu trong lúc toạ thiền, các thiện căn phát ra, thì nên dùng hai pháp Chỉ Quán tu tập khiến cho tăng trưởng. Lúc nào nên dùng phép Chỉ, thì dùng phép Chỉ, lúc nào nên dùng phép Quán, thì dùng phép Quán, tùy nghitu hành như trước đã nói.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19685)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23947)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41202)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19676)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23971)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23290)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27488)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26541)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29300)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33165)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20178)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25754)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31284)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38535)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21412)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44234)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29804)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42165)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22124)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45719)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32096)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23942)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24375)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29237)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33896)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27665)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21055)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28836)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21554)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28041)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22053)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21416)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19483)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19818)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19228)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29161)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20606)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28271)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23634)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33160)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21362)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21540)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26364)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24806)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21741)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22365)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29121)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22548)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20458)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23501)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21226)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35285)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24537)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant