Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Chín: Trị bệnh

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11532)
Phần Chín: Trị bệnh


PHẦN CHÍN
TRỊ BỆNH


Hành giả an tâm tu tập Chỉ Quán, có khi sinh ra bệnh hoạn, hoặc vì trước đã có bệnh, do tinh tấn tu hànhkích thích bệnh cũ phát sinh, hoặc vì không khéo điều hòa thân, tâm và tức, có chỗ sai trái. Sự thật thì nê?u khéo dụng tâm trong lúc tọa thiền, tất cả các bệnh đều trừ khỏi cả.

Nhưng, nếu dụng tâm không đúng, các bệnh có thể nhân tọa thiền mà phát sinh.Vì thế, hành giả nên biết rõ gốc bệnh, và biết cách trị bệnh trong lúc tọa thiền, nếu để bệnh phát nặng, chẳng những trở ngại cho việc hành đạo, mà còn có thể nguy hại cho tính mạng nữa.

Phương pháp trị bệnh gồm có hai phần:

A) Nêu rõ các tướng phát sinh bệnh:

Nguyên nhân phát sinh bệnh tuy nhiều, nhưng không ngoài hai thứ:

1) Những bệnh do tứ đại thêm hay bớt:

Địa đại tăng thì thân thể hóa thủng, hóa kết và nặng nề, khô khan; Thủy đại tăng thì kéo đờn, trướng bụng, ăn uống không tiêu, đau, đi lî... Hỏa đại tăng thì lạnh nhiều hoặc nóng dữ, mọi phần đau nhức, hơi thở và đại tiểu tiện không thông.Phong đại tăng thì thân thể khó chịu, run rẩy, đau nhức, hơi thở gấp rút, no hơi, ọe mửa.. Phàm tứ đại không điều hòa thì nhiều bệnh phát sinh, càng nhiều đại không điều hòa thì càng nhiều bệnh. Vậy, nên quán sát bệnh tướng trong lúc tọa thiền để nhâ?n biết xác thực.

2.Những bệnh do ngũ tạng:

Như đau tim thì thân thể nóng lạnh, đau đầu và miệng khô.... vì tim có quan hệ đến miệng. Phế đau thì thân thể đầy, tứ chi nhức mỏi và mũi nghetï thở vì phế có quan hệ đến mũi. Gan đau thì lo rầu không vui, đau thương, nóng giận, đầu nhức mắt lòa.. vì gan có quan hệ đến mắt. Tỳ đau thì thân thể nhiều phong, khắp mình lở ngứa, đau nhức, ăn uống không ngon... vì tỳ có quan hệ đến lưỡi. Thân đau thì yết hâ?u bế tắt, bụng sình tai điếc..vì thân có quan hệ đến tai.

Những bệnh do ngũ tạng sinh ra, có nhiều tướng, trong lúc tọa thiền, nếu quan sát kỷ thì có thể biết rõ.Các bệnh do tứ đạingũ tạng sinh ra, không thể nói hết, cốt yếu hành giả cần biết nguyên nhân phát bệnh:

Có hai nguyên nhân phát bệnh:

a/ Nguyên nhân ở ngoài như hàn, nhiệt, phong thấp, ăn uống không tiêu.

b/ Nguyên nhân ở trong như do tứ đại, ngũ tạng không điều hòa mà sinh bệnh, hoặc do ma cảnh mà sinh bệnh, hoặc do nghiệp báo mà sinh bệnh.

Lắm khi do trong lúc thực hành Chỉ Quán, dụng tâm sai lệch, hoặc khi các định phát ra, nhận định không đúng, thành những nguyên nhân bên trong, kết hợp với những nguyên nhân bên ngoài, mà phát bệnh hoạn. Lúc mới phát, biết trị ngay thì dễ khỏi, nếu để lâu ngày, thân thể yếu đuối, bệnh xâm nhập sâu thì khó trị.

B) Nêu rõ phương pháp trị bệnh:

Phương pháp trị bệnh có nhiều, cốt yếu không ra ngoài hai phép Chỉ Quán.

Áp dụng phương pháp Chỉ để trị bệnh thì các vị Thiền sư, có vị nói: Chỉ cần an tâm, dừng lại nơi chỗ đau thì trị được bệnh. Có vị nói, an tâm dưới rốn một tấc, gọi là đan điền, nếu giữ tâm ở đoạn đan điền không xao động thì trị được các bệnh. Có vị nói, trong các lúc đi, đứng, nằm, ngồi, thường dùng tâm ở dưới chân thì có thể trị bệnh. Có vị nói, chỉ cần biết các pháp rỗng không, vốn không có gì, không nhận tướng bệnh, an trụ nơi vắng lặng thì trị được các bệnh.

Kinh Tịnh Danh có dạy: "Gốc bệnh là do phan duyên, dứt được tâm phan duyên thì không còn có bệnh phải trị".Áp dụng phương pháp Quán để trị bệnh, thì các vị Thiền sư, có vị nói: "Chỉ cần quán tâm tưởng, dùng sáu thứ hơi thở để trị bệnh. Sáu thứ hơi thở là: xuy, hô, hy, ha, hư, hê. Có vị nói nếu khéo dùng quán tưởng, dùng mười hai cách thở, có thể trị các bệnh, thượng tức trị trầm trọng, hạ tức trị hư huyễn, mãn tức trị khô gầy, tiêu tức đầy thũng, tăng trưởng tức trị suy yếu, diệt hoại tức trị tăng thịnh, xung tức trị bế tắc không thông, trì tức trị lay động run rẩy, hòa tức trị tứ đại bất hòa, bố tức trị tứ đại suy kém. Khéo dùng mười hai quán hơi thở nầy thì có thể trị khắp các thứ bệnh. Có vị nói, khéo dùng quán giả tưởng có thể trị các bệnh, như quán hòa khí trong thân lên mạnh thì có thể trị được bệnh lạnh. Có vị nói, chỉ dùng Chỉ Quán xem xét, chia chẻ trong thân tứ đại, không thấy cái gì là bệnh, thì các bệnh đều tự khởi.

Về cách dùng Chỉ Quán để trị bệnh, các vị dạy nhiều phương pháp, hành giả tùy tiện mà dùng, pháp nào thấy có công hiệu thì tiếp tục dùng cho đến khi khỏi hẳn.

Đối với những người mơi bắt đầu thực tập Chỉ Quán thì chưa đủ định lực để điều trị, vậy nên uống thuốc thích hợp để chữa bệnh. Nếu bệnh do tứ đại, ngũ tạng không điều hòa mà sinh ra. Nếu bệnh, do ma sự thì dùng những phương pháp đã nói trên kia để trừ khử. Nếu bệnh do nghiệp báo thì nên làm việc phúc thiện, sám hối tội lỗi để tiêu diệt.Lại trong lúc tọa thiền để trị bệnh, cần đủ mười pháp sau mới có được lợi ích:

1.-Tin- tin phương pháp này có thể trị được bệnh.
2.- Dụng - theo bệnh mà dụng tâm cho thích hợp.
3.- Siêng - chuyên cần áp dụng phương pháp trị bệnh cho đến khi khỏi hẳn.
4.- An trụ - nghĩa là tế tâm, niệm niệm nương theo chánh pháp, không duyên với cảnh gì khác.
5.- Phân biệt - phân biệt nguyên nhân của bệnh, phải biết bệnh do đâu khởi ra.
6.- Phương tiện.- vận dụng tâm cho thích hợp với phương pháp mới dễ thành tựu.
7.- Lâu ngày - khi mới thực tập mà chưa thấy kết quả thì vẫn thực hành mãi không thôi, đừng kể ngày tháng.
8.- Biết thủ xả - điều gì có ích thì siêng tu, điều gì tổn hại thì rời bỏ, xét thấy bệnh tình mà vững tâm điều trị.
9.- Giữ gìn - khéo biết những nguyên nhân gây ra bệnh hoa?n , để giữ gìn sức khoẻ.
10.- Ngăn ngừa chướng ngại - nghĩa là được lợi ích không khoe với ai, bệnh chưa giảm không sanh nghi bán.

Đủ được mười pháp như vậy thì trị bệnh chắc chắnhiệu quả.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23950)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41207)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27491)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26545)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29303)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33174)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25759)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31297)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38547)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21417)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44237)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29809)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42183)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33903)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27673)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32117)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21056)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28839)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28053)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21420)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19485)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19822)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19232)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29165)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23641)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21745)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22368)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20462)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23506)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35300)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant