Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Chín: Trị bệnh

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11542)
Phần Chín: Trị bệnh


PHẦN CHÍN
TRỊ BỆNH


Hành giả an tâm tu tập Chỉ Quán, có khi sinh ra bệnh hoạn, hoặc vì trước đã có bệnh, do tinh tấn tu hànhkích thích bệnh cũ phát sinh, hoặc vì không khéo điều hòa thân, tâm và tức, có chỗ sai trái. Sự thật thì nê?u khéo dụng tâm trong lúc tọa thiền, tất cả các bệnh đều trừ khỏi cả.

Nhưng, nếu dụng tâm không đúng, các bệnh có thể nhân tọa thiền mà phát sinh.Vì thế, hành giả nên biết rõ gốc bệnh, và biết cách trị bệnh trong lúc tọa thiền, nếu để bệnh phát nặng, chẳng những trở ngại cho việc hành đạo, mà còn có thể nguy hại cho tính mạng nữa.

Phương pháp trị bệnh gồm có hai phần:

A) Nêu rõ các tướng phát sinh bệnh:

Nguyên nhân phát sinh bệnh tuy nhiều, nhưng không ngoài hai thứ:

1) Những bệnh do tứ đại thêm hay bớt:

Địa đại tăng thì thân thể hóa thủng, hóa kết và nặng nề, khô khan; Thủy đại tăng thì kéo đờn, trướng bụng, ăn uống không tiêu, đau, đi lî... Hỏa đại tăng thì lạnh nhiều hoặc nóng dữ, mọi phần đau nhức, hơi thở và đại tiểu tiện không thông.Phong đại tăng thì thân thể khó chịu, run rẩy, đau nhức, hơi thở gấp rút, no hơi, ọe mửa.. Phàm tứ đại không điều hòa thì nhiều bệnh phát sinh, càng nhiều đại không điều hòa thì càng nhiều bệnh. Vậy, nên quán sát bệnh tướng trong lúc tọa thiền để nhâ?n biết xác thực.

2.Những bệnh do ngũ tạng:

Như đau tim thì thân thể nóng lạnh, đau đầu và miệng khô.... vì tim có quan hệ đến miệng. Phế đau thì thân thể đầy, tứ chi nhức mỏi và mũi nghetï thở vì phế có quan hệ đến mũi. Gan đau thì lo rầu không vui, đau thương, nóng giận, đầu nhức mắt lòa.. vì gan có quan hệ đến mắt. Tỳ đau thì thân thể nhiều phong, khắp mình lở ngứa, đau nhức, ăn uống không ngon... vì tỳ có quan hệ đến lưỡi. Thân đau thì yết hâ?u bế tắt, bụng sình tai điếc..vì thân có quan hệ đến tai.

Những bệnh do ngũ tạng sinh ra, có nhiều tướng, trong lúc tọa thiền, nếu quan sát kỷ thì có thể biết rõ.Các bệnh do tứ đạingũ tạng sinh ra, không thể nói hết, cốt yếu hành giả cần biết nguyên nhân phát bệnh:

Có hai nguyên nhân phát bệnh:

a/ Nguyên nhân ở ngoài như hàn, nhiệt, phong thấp, ăn uống không tiêu.

b/ Nguyên nhân ở trong như do tứ đại, ngũ tạng không điều hòa mà sinh bệnh, hoặc do ma cảnh mà sinh bệnh, hoặc do nghiệp báo mà sinh bệnh.

Lắm khi do trong lúc thực hành Chỉ Quán, dụng tâm sai lệch, hoặc khi các định phát ra, nhận định không đúng, thành những nguyên nhân bên trong, kết hợp với những nguyên nhân bên ngoài, mà phát bệnh hoạn. Lúc mới phát, biết trị ngay thì dễ khỏi, nếu để lâu ngày, thân thể yếu đuối, bệnh xâm nhập sâu thì khó trị.

B) Nêu rõ phương pháp trị bệnh:

Phương pháp trị bệnh có nhiều, cốt yếu không ra ngoài hai phép Chỉ Quán.

Áp dụng phương pháp Chỉ để trị bệnh thì các vị Thiền sư, có vị nói: Chỉ cần an tâm, dừng lại nơi chỗ đau thì trị được bệnh. Có vị nói, an tâm dưới rốn một tấc, gọi là đan điền, nếu giữ tâm ở đoạn đan điền không xao động thì trị được các bệnh. Có vị nói, trong các lúc đi, đứng, nằm, ngồi, thường dùng tâm ở dưới chân thì có thể trị bệnh. Có vị nói, chỉ cần biết các pháp rỗng không, vốn không có gì, không nhận tướng bệnh, an trụ nơi vắng lặng thì trị được các bệnh.

Kinh Tịnh Danh có dạy: "Gốc bệnh là do phan duyên, dứt được tâm phan duyên thì không còn có bệnh phải trị".Áp dụng phương pháp Quán để trị bệnh, thì các vị Thiền sư, có vị nói: "Chỉ cần quán tâm tưởng, dùng sáu thứ hơi thở để trị bệnh. Sáu thứ hơi thở là: xuy, hô, hy, ha, hư, hê. Có vị nói nếu khéo dùng quán tưởng, dùng mười hai cách thở, có thể trị các bệnh, thượng tức trị trầm trọng, hạ tức trị hư huyễn, mãn tức trị khô gầy, tiêu tức đầy thũng, tăng trưởng tức trị suy yếu, diệt hoại tức trị tăng thịnh, xung tức trị bế tắc không thông, trì tức trị lay động run rẩy, hòa tức trị tứ đại bất hòa, bố tức trị tứ đại suy kém. Khéo dùng mười hai quán hơi thở nầy thì có thể trị khắp các thứ bệnh. Có vị nói, khéo dùng quán giả tưởng có thể trị các bệnh, như quán hòa khí trong thân lên mạnh thì có thể trị được bệnh lạnh. Có vị nói, chỉ dùng Chỉ Quán xem xét, chia chẻ trong thân tứ đại, không thấy cái gì là bệnh, thì các bệnh đều tự khởi.

Về cách dùng Chỉ Quán để trị bệnh, các vị dạy nhiều phương pháp, hành giả tùy tiện mà dùng, pháp nào thấy có công hiệu thì tiếp tục dùng cho đến khi khỏi hẳn.

Đối với những người mơi bắt đầu thực tập Chỉ Quán thì chưa đủ định lực để điều trị, vậy nên uống thuốc thích hợp để chữa bệnh. Nếu bệnh do tứ đại, ngũ tạng không điều hòa mà sinh ra. Nếu bệnh, do ma sự thì dùng những phương pháp đã nói trên kia để trừ khử. Nếu bệnh do nghiệp báo thì nên làm việc phúc thiện, sám hối tội lỗi để tiêu diệt.Lại trong lúc tọa thiền để trị bệnh, cần đủ mười pháp sau mới có được lợi ích:

1.-Tin- tin phương pháp này có thể trị được bệnh.
2.- Dụng - theo bệnh mà dụng tâm cho thích hợp.
3.- Siêng - chuyên cần áp dụng phương pháp trị bệnh cho đến khi khỏi hẳn.
4.- An trụ - nghĩa là tế tâm, niệm niệm nương theo chánh pháp, không duyên với cảnh gì khác.
5.- Phân biệt - phân biệt nguyên nhân của bệnh, phải biết bệnh do đâu khởi ra.
6.- Phương tiện.- vận dụng tâm cho thích hợp với phương pháp mới dễ thành tựu.
7.- Lâu ngày - khi mới thực tập mà chưa thấy kết quả thì vẫn thực hành mãi không thôi, đừng kể ngày tháng.
8.- Biết thủ xả - điều gì có ích thì siêng tu, điều gì tổn hại thì rời bỏ, xét thấy bệnh tình mà vững tâm điều trị.
9.- Giữ gìn - khéo biết những nguyên nhân gây ra bệnh hoa?n , để giữ gìn sức khoẻ.
10.- Ngăn ngừa chướng ngại - nghĩa là được lợi ích không khoe với ai, bệnh chưa giảm không sanh nghi bán.

Đủ được mười pháp như vậy thì trị bệnh chắc chắnhiệu quả.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15013)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13445)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15130)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16496)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13217)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12584)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13462)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13412)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12759)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12075)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11974)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12647)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11475)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11782)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11155)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13281)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13163)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11589)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12169)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12358)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11952)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12747)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12369)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12193)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12261)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12010)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11954)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11222)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11370)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12375)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12468)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11994)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12960)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12042)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12601)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13008)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13944)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14869)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11925)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12188)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12883)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12772)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14766)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12749)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15393)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12578)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13215)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14239)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15547)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13137)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13568)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12484)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12089)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12896)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12982)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13211)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21335)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143649)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant