Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Công Đức Tin Phật

08 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 15684)
Kinh Công Đức Tin Phật

KINH CÔNG ĐỨC TIN PHẬT


Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống)

Việt Dịch: Thích Chánh Lạc



kinh_cong_duc_tin_phatTôi nghe như vầy:

Một thời Phật tại thành A nô ca, trong vườn Yêm La cùng với đông đủ đại chúng.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất đúng giờ khất thực, nên đắp y ôm bát vào thành A nô ca, thứ lớp khất thực xong, trở về chỗ ở của mình, xếp y rửa chân, trải tòa ngồi thọ thực. Khi ăn xong, đi đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Phật, rồi đứng qua một bên, chấp tay hướng về Phật bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nay con đối với Phật pháp khởi lòng tin một cách sâu xa. Vì sao vậy? Vì thần thông của Phật là tối thắng không ai sánh bằng. Các Sa môn, Bà la mônquá khứ, hiện tạivị lai vẫn không ai có thể biết thần thông của Phật, huống chi là hơn được Phật. Làm sao họ có thể chứng được đạo quả Vô thượng bồ đề?

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này Xá Lợi Phất, Tôn giả có thể khéo về nói nghĩa lý hết mực sâu rộng nầy. Tôn giả hãy nên thọ trì, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống của sư tử, thuyết giảng rộng khắp tuyên thuyết.

Xá Lợi Phất lại bạch:

–Bạch Thế Tôn, nay con đối với Phật khởi sanh tín tâm, cho rằng dù ở quá khứ, hiện tạivị lai không có ai bằng Phật, cũng không có Sa môn, Bà la môn nào biết rõ thần thông của Phật huống chi là hơn được Phật. Làm sao họ có thể chứng được đạo quả Vô thượng bồ đề?

Phật bảo:

–Này Xá Lợi Phất, ý ngươi nghĩ sao? Các đức Phật Như Lai, Ứng Chánh Ðẳng Giác trong ba đời có đủ giới thanh tịnh, trí huệ, giải thoát, thần thông, diệu hạnh, ta dùng diệu lực của thần thông đều biết rõ cả. Các đức Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác ấy cũng lại như vậy, các Ngài biết ta có đủ giới thanh tịnh, trí huệ, giải thoát, thần thông, diệu hạnh. Nầy Xá Lợi Phất, Tôn giả chớ có bảo rằng chỉ riêng đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới có đủ thần thông ấy.

Tôn giả Xá Lợi Phất thưa:

–Chẳng phải như vậy, thưa Thế Tôn. Con không có nói "chỉ có Phật mới có đủ thần thông ấy. Con biết ba đời các đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác đều có đủ giới pháp thanh tịnh, trí huệ, giải thoát, thần thông, diệu hạnh cũng đồng như Phật".

Phật dạy:

–Này Xá Lợi Phất! Ðúng vậy, đúng vậy! Các đức Phật Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác trong ba đời đều có đủ các pháp thần thông ấy. Tôn giả hãy vì các chúng sanh mà niêu bày rõ khắp về pháp sâu xa như vậy, hãy một lòng thọ trì. Ở trong đại chúng, hãy rống lên tiếng rống của sư tử, thuyết giảng rộng khắp.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Phật của con đã thuyết giảng rộng rãi diệu pháp tối thắng vô cùng sâu xa, cho đến nghiệp thiện và bất thiện và các pháp duyên sanh, con đều mỗi mỗi rõ biết như thật. Khi hiểu một pháp rồi liền tu một pháp; tu một pháp rồi lại diệt một pháp; diệt một pháp rồi lại chứng một pháp. Cho nên nay con khởi sanh lòng tin nơi đức Phật là chơn chánh đẳng chánh giác.

Phật bảo:

–Nầy Xá Lợi Phất! Nay Tôn giả hãy đi hỏi những người khác trong thời quá khứSa môn, Bà la môn nào có thể rõ biết về diệu lực nơi các thần thông chơn thật hơn Phật cho đến thành tựu qủa vị giác ngộ như Phật? Tôn giả hãy hỏi và xem họ sẽ đáp như thế nào?

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Tôn giả hãy lại đến các người khác để hỏi: Trong thời vị laiSa môn, Bà la môn nào bằng với đức Phật cho đến thành tựu qủa vị giác ngộ như Phật? Tôn giả hãy đến hỏi xem họ sẽ đáp như thế nào?

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Tôn giả hãy đến các người khác để hỏi: Trong thời hiện tạiSa môn, Bà la môn nào bằng với đức Phật huống là thành tựu qủa vị giác ngộ như Phật?

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Tôn giả hãy lại đến các người khác để hỏi: Trong thời quá, khứ vị laihiện tại các Sa môn, Bà la môn... quy y người nào? Tôn giả hãy hỏi và xem họ sẽ đáp như thế nào?

Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nghĩa này chẳng phải như vậy. Con được theo Phật nghe Phật dạy, ghi nhớ thọ trì: "Không có hai đức Phật cùng xuất hiệnthế gian, chỉ có một đức Phật Thế Tôn đúng là bậc Chánh đẳng Chánh giác, là bậc chánh biến tri, đầy đủ năng lực thần thông tối thượng". Bạch Thế Tôn! Con không thấy các Sa môn, Bà la môn nào có thể biết được năng lực thần thông này, lại có thể hơn Phật được, huống hồ là thành tựu qủa vị giác ngộ như Phật.

Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch Phật:

–Con thấy đức Thế Tônvô số các pháp tối thắng. Pháp tối thắng ấy là: khi đức Phật Thế Tôn đang thuyết pháp, ai đạt được thiện lợi, Phật đều biết rõ. Nếu có các Sa môn, Bà la môn... an trụ ở các nơi như núi rừng hoang vắng, bên gốc cây, chốn gò mả, hay trong nhà trống, nhập Tam ma địa, đoạn trừ các phiền não, tu tập viên mãn, làm tăng trưởng các pháp lành, chánh tâm ghi nhớ; Lại nữa, các Sa môn, Bà la môn ấy đoạn các điều ác, tu các điều lành cho đến chứng được quả vị. Các pháp như vậy Phật đều biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật, không có Sa môn, Bà la môn nào biết được năng lực thần thông này hơn Phật, huống chi là thành tựu qủa vị giác ngộ như Phật.

–Lại nữa, đức Phật của con có đầy đủ pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn khéo hay phân biệt được pháp mười hai xứ. Và có thể thuyết giảng rộng rãi pháp này cho người khác nghe. Không có một Sa môn, Bà la môn nào có thể rõ biết pháp mười hai xứ ấy, có thể phân biệt được mười hai xứ. Ðó là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thinh xứ, tỷ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ. Các pháp như vậy chỉ có Phật Thế Tôn mới biết rõ. Như vậy gọi là pháp tối thắng của Phật không có Sa môn nào hơn được, huống hồ là thành tựu qủa vị giác ngộ như Phật.

–Lại nữa, Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn khéo biết phân biệt thấu đạt lý nơi pháp của Bổ đặc già la và giảng nói cho người khác nghe pháp ấy. Không có Sa môn, Bà la môn nào biết được pháp như vậy và nói cho người khác nghe về pháp Bổ đặc già la. Thân có bảy loại, đó là tùy tín hành, tùy pháp hành, tín giải, kiến chí, thân chứng, huệ giải thoát, câu giải thoát. Bảy loại pháp tối thắng của Bổ đặc già la như vậy chỉ có Phật Thế Tôn mới rõ biết, gọi đó là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn nói ra lời chơn thật không hư dối, cũng không nói lời thêu dệt và nói lời hai lưỡi. Những điều Ngài nói ra là đúng đắn, đem lại lợi ích lớn. Pháp tối thắng này có nhân có duyên, có thể ở trong đại chúng phát ra âm thanh vi diệu, giảng nói ý nghĩa sâu xa. Pháp chơn thật hơn hết như vậy chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể biết rõ, đó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn dùng Tam ma bát để quán sát về thân hữu lậu là dơ nhớp xấu xa. Ấy là những phần trên và dưới của thân thể như tóc, lông, móng, răng, da thịt, gân, cốt, các vật bất tịnh như thế đầy dẫy trong thân, Phật đều biết rõ, đấy là vật không rốt ráo, cần phải xa lìa, nhàm chán. Ðó gọi là Tam ma bát để thứ nhất.

–Lại nữa, thưa Thế Tôn! Nếu có Sa môn, Bà la môn đối với những vật trong thân như da, thịt, xương, tủy, các vật hôi thối... là hữu lậu bất tịnh, có thể dùng trí tuệ để quán sát một cách như thật. Ðó là Tam ma bát để thứ nhì.

–Lại nữa, thưa Thế Tôn! Nếu có Sa môn, Bà la môn nào có thể dùng trí tuệ quán sát về thân hữu lậu, suốt cả cuộc đời mà vẫn chẳng phải là rốt ráo. Nếu có thể quán sát như vậy thì đó là Tam ma bát để thứ ba.

–Lại nữa, thưa Thế Tôn! Nếu có Sa môn nào có thể dùng trí tuệ quán sát về thân hữu lậu, đời này chẳng phải là rốt ráo, cho đến đời sau cũng chẳng phải là rốt ráo. Nếu có thể quán sát được như vậy thì đó là Tam ma bát để thứ tư.

–Lại nữa, thưa Thế Tôn! Nếu có Sa môn có thể dùng trí tuệ như ở trước quán sát về thân hữu lậu, đời này và đời sau đều chẳng phải là rốt ráo. Cho đến đời sauđời sau nữa vẫn chẳng phải là rốt ráo, đều là bất tịnh đáng ghét. Nếu có thể quán sát như vậy gọi là Tam ma bát để thứ năm.

–Lại nữa, thưa Thế Tôn! Hữu lậu bất tịnh như vậy là pháp không rốt ráo. Chỉ có Phật Thế Tôn dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy xa hơn mắt thường, đều thấy chúng sanh sống, chết, đẹp, xấu, sinh đến chỗ lành hay chỗ ác, cho đến sanh lên cõi trời, Ngài đều biết đúng như thật. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là khi Thế Tôn thuyết pháp, nếu có Sa môn, Bà la môn nào quy y hướng về Ngài để nghe pháp thọ trì, cầu đạt sự tịch tĩnh, họ đều nương tựa vào Thất giác phần. Thất giác phầnTrạch pháp giác phần, Tinh tấn giác phần, Hỷ giác phần, Khinh an giác phần, Xả giác phần, Niệm giác phần, Ðịnh giác phần. Bảy pháp như vậy chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là khéo phân biệt pháp Tứ chánh cần. Tứ chánh cần là điều ác đã làm khiến cho đoạn trừ; điều ác chưa làm khiến cho không phát sinh; điều thiện đã làm khiến cho tăng trưởng; điều thiện chưa làm khiến cho phát sanh. Các pháp như vậy đối với thiên thượng, nhơn gian, Ngài đều thuyết giảng rộng rãi để tạo mọi lợi ích. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn hay dùng chánh trí hiện đại thần thông. Thần thông đó là: từ một thân hiện thành nhiều thân, từ nhiều thân hợp thành một thân, hoặc hiện không có gì cả, hoặc dùng thân xuyên qua thành quách núi đá để đi, hoặc hiện từ mặt đất lấy tay tiếp xúc với hư không cho đến cõi trời Phạm thiên, hoặc hiện đi dưới nước như đi trên đất liền, hoặc hiện ngồi kiết già trên không trung, hoặc hiện hành tướng giống như mặt trời mặt trăng du hành trên không trung. Những thần thông như vậy nếu có Sa môn, Bà la môn nào thấy diệu lực nơi thần thông ấy mà sanh lòng ngờ vực, con nói những người ấy là những kẻ phàm phu ngu si, không phải là bậc Thánh, không đủ sức thần thông, không cầu chánh giác, cũng không muốn cầu Niết bàn tịch tĩnh. Nhưng năng lực thần thông này chính là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Những điều ưa muốn của thế gian là sắc hoan hỷ, sắc đẹp... Nếu có ai mong cầu, Như lai vì các chúng sanh đó, theo căn cơgiáo hóa, đó là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Những sắc vui và những sắc không vui, sắc đẹp và sắc không đẹp của thế gian, cả hai đều xa lìa, xả bỏ không trụ, khéo biết túc mạng. Ðó chính là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Trong sắc thấy sắc, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bên trong không có tưởng về sắc, thấy các sắc bên ngoài, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Thân khéo giải thoát, chứng được Hành trụ, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Quyết định chứng đắc Không Vô Biên Xứ, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Quyết định chứng đắc Thức Vô Biên Xứ, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Quyết định chứng đắc Vô Sở Hữu Xứ, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Quyết định chứng đắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, đó gọi là thần thông của Như lai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Rõ biết thọ, tưởng, thọ tưởng diệt rồi, đó gọi là thần thông của Như lai.

Như vậy tất cả những cảnh giới thần thông tối thắng chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể rõ biết hoàn toàn. Ðó gọi là năng lực thần thông của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là các Sa môn Bà la môn... từ một đời cho đến nhiều đời trong quá khứ, mọi nhân duyên tạo tác, nhận lấy, quả báo, mọi suy nghĩ...cho đến tuổi thọ. Con đối với số năm nhiều như vậy không thể nào biết được. Chỉ có Phật Thế Tôn mới biết được các Sa môn, Bà la môn này trong kiếp quá khứ với những nơi họ đã ở, hoặc trong sắc giới, hoặc trong vô sắc giới, hoặc Hữu tưởng xứ, hoặc Vô tưởng xứ, hoặc Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, mọi nhân duyên mà họ đã làm các thứ quả báo, Ngài đều biết rõ cả. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là khi Thế Tôn thuyết pháp đều thuyết giảng hoàn toàn như thật. Hoặc có Sa môn, Bà la mônngu si nên sanh ra ý nghĩ này nọ, khởi tâm nghi hoặc cho: Pháp Phật nói ra đều dùng ngôn ngữ thuyết giảng về sự tướng: Pháp được nói ra đó là ba đời cùng thuyết, hoặc gần hoặc xa, pháp đều thích hợp với tâm ý và cũng đều được thuyết giảng như thế. Còn pháp do vị kia nói đều chẳng như thật. Khởi lên sự nghi này Phật biết rõ cả. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con khi thuyết pháp, nếu có Sa môn, Bà la môn nào tự mình không sanh nghi, sau đó nghe người khác nói: "Pháp Phật nói ra đều chẳng như thật". Nghe lời nói ấy rồi lại sanh lòng nghi, cũng cho: "Thế Tôn dùng sự tướng để thuyết giảng các pháp." Khởi lên sự hủy báng này Phật cũng biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con khi thuyết pháp, nếu có Sa môn, Bà la môn vốn không sanh nghi hoặc, không bảo "Thế Tôn dùng sự tướng để thuyết giảng các pháp" Sau lại nghe người khác nói, do đó mà sanh nghi hoặc, lại bảo với người khác khiến cho người này cũng sanh nghi hoặc. Do tâm nghi hoặc mới sanh ra ý này ý nọ, nói như thế này: "Việc này giống như trước, đều chẳng chơn thật". Ðó là những tâm sai khác của chúng sanh, đối với những việc như vậy Phật đều biết cả. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con thấy có Sa môn ở trong Tam ma địa, không nghi, không nói, Phật đều biết rõ hạnh nguyện của họ. Lại nữa, hoặc thấy Sa môn từ định mà ra Phật cũng biết rõ. Họ có những việc gì và những nghi hoặc nào cho nên mới xuất định, những nghi hoặc như vậy Phật đều biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn khéo biết rõ các pháp không rốt ráo. Nếu có Sa môn, Bà la môn nào ở trong núi, tâm an trụ nơi pháp Ðẳng dẫn, dùng thần thông diệu lực từ của mình biết được sự việc hai mươi kiếp tăng giảm. Họ nghĩ như vầy: "Ta ở trong thời quá khứ, những sự việc trong kiếp tăng giảm đều biết rõ". Bạch Thế Tôn! Các Sa môn, Bà la môn kia đối với những việc tăng giảm trong thời vị laihiện tại họ không thể biết được. Chỉ có đức Phật Thế Tôn mới biết rõ sự tăng giảm của ba đời. Ðó gọi là biết rõ pháp không rốt ráo thứ nhất.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có Sa môn, Bà la môn nào ở trong núi sâu, tâm an trụ nơi pháp Ðẳng dẫn dùng thần thông diệu lực từ của chính mình biết được sự việc bốn mươi kiếp tăng giảm, vị ấy nghĩ: "Trong đời vị lai có những kiếp tăng giảm ta đã biết rõ". Bạch Thế Tôn! Các Sa môn, Bà la môn kia họ lại không biết sự tăng giảm của kiếp quá khứhiện tại. Chỉ có đức Phật Thế Tôn mới biết ba đời một cách đầy đủ. Ðó gọi là biết rõ pháp không rốt ráo thứ hai.

–Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có Sa môn, Bà la môn nào ở trong núi sâu, tâm an trụ nơi pháp Ðẳng dẫn dùng diệu lực từ thần thông của chính mình biết được sự việc tăng giảm của tám mươi kiếp. Vị ấy nghĩ: "Những việc tăng giảm của quá khứvị lai ta đều biết rõ". Bạch Thế Tôn! Vị Sa môn, Bà la môn ấy chỉ còn đối với biên vực tận cùng của hiện tại là không thể biết. Duy có Phật Thế Tôn là mỗi mỗi đều biết rõ giới mốc của ba đời. Ðó gọi là biết rõ pháp không rốt ráo thứ ba.

Như vậy đức Thế Tôn đã dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy xa hơn mắt thường, Ngài thấy hết các pháp sanh và diệt của chúng sanh cho đến sanh lên cõi trời. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là đức Phật Thế Tôn dùng pháp điều phục biết rõ pháp an lạc nơi tâm của các Bổ đặc già la, từ đó Ngài giảng nói cho Bổ đặc già la ấy. Khi đã biết rõ thì theo đúng như lý mà tu hành, đoạn ba thứ phiền não, không lâu sau đó chứng quả Tu đà hoàn, ngược dòng sanh tử, bảy lần qua lại nơi cõi trời hoặc ở nhơn gian, dứt tận biên vực của khổ. Như vậy Thế Tôn đều biết rõ cả. Lại nữa bạch Thế Tôn, biết pháp ưa thích nơi tâm ý của Bổ đặc già la này rồi, giúp họ theo đúng như lý mà tu hành, đoạn trừ ba thứ phiền não, đoạn trừ tham, sân, si, sau đó không lâu sẽ chứng quả Tư đà hàm; một lần trở lại nhân gian nữa thì dứt được tận cùng biên vực của khổ. Như vậy Thế Tôn đều biết rõ cả. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khéo biết pháp ưa thích nơi tâm ý của Bổ đặc già la rồi, giúp họ đúng như lý tu hành, đoạn ba món phiền nãotùy phiền não, không lâu sau đó chứng quả A na hàm. Như vậy Thế Tôn đều biết rõ cả. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khéo biết rõ Bổ đặc già la, giúp họ theo đúng như lý tu hành, chẳng bao lâu thì dứt sạch các lậu, chứng pháp giải thoát, sanh tử đã hết, phạm hạnh được lập, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. Những pháp như vậy Thế Tôn mỗi mỗi đều biết rõ cả. Ðó là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là đức Phật Thế Tôn khéo biết rõ về bốn loại thai tạng. Một là không biết nhập thai, cũng không biết trụ thai và ra khỏi thai; hai là có biết nhập vào thai nhưng không biết trụ trong thai và ra khỏi thai; ba là biết nhập vào thai, trụ trong thai nhưng không biết ra khỏi thai; bốn là nhập vào thai, trụ ở thai và ra khỏi thai đều biết rõ. Bốn loại như vậy, sự biết có sai khác, chỉ có Phật Thế Tôn mỗi mỗi mới biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn khéo biết rõ các Bổ đặc già la, tùy theo loại mà đoạn trừ các chướng ngại để chứng thánh quả. Các pháp như vậy Phật đều biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

–Lại nữa, đức Phật Thế Tôn của con có pháp tối thắng. Ðó là Phật Thế Tôn biết rõ có người đã đủ tín căn, giới hạnh thanh tịnh, trí huệ đầy đủ, chơn thật không hư vọng, không có ngã, không biếng trễ, không có các thứ huyễn hoặc, không bị tán loạn, cũng không có tham dục, không dùng tà đạo để dẫn dắt chúng sanh, thường thực hành chánh niệm. Những pháp như vậy chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể biết rõ. Ðó gọi là pháp tối thắng của Phật.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hàng phàm phu ngu si của thế gian tham các dục lạc, lao khổ thân mình, cầu lợi một các vô nghĩa. Chư Phật Như lai chẳng giống như vậy, chỉ muốn làm lợi cho người khác, chẳng cầu cái vui riêng cho mình, khéo biết tâm pháp, thấy pháp tịch tĩnh, trụ trong an lạc, không dục không khổ, được bốn thiền định. Cho nên bạch Thế Tôn, nếu có những thiện nam thuộc hàng thượng căn nên thấy như vậy, nên nghe như vậy, nên hay như vậy, nên biết như vậy. Ðó gọi là bậc thượng căn đích thực.

Bấy giờ, trong chúng hội có một Tôn giả tên là Long Hộ, tay cầm phất trần báu, đứng một bên hầu Phật. Lúc đó, Tôn giả Long Hộ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con xem các hàng ngoại đạo tà kiến như Ni càn tử v.v... đối với Phật Thế Tôn trước không có lòng tin, chỉ dùng tà đạo để cạnh tranh nói cho hơn. Cho nên con nay dốc tạo nên pháp tràng để niêu bày chỉ dẫn cho người đời, nhằm khiến họ đều nghe biết về công đức thù thắng của Phật. Vì Phật Thế Tôn là bậc Ðại trượng phu tối tôn tối thượng, không ai bằng.

Ðức Thế Tôn bảo Tôn giả Long Hộ:

–Tôn giả chớ nói như vậy, chớ có niêu bày chỉ ra cho người khác biết về công đức thù thắng của Phật. Nay ta không muốn xưng dương như vậy.

Tôn giả Long Hộ liền tán thán đức Thế Tôn:

–Lành thay! Lành thay! Ðúng là bậc Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:

–Tôn giả hãy khéo dùng chánh pháp như vậy, rộng vì các Bí sô, Bí sô ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và các Sa môn, Bà la môn mà niêu giảng quảng diễn khắp chốn, cho đến các hàng ma, ngoại đạo Ni càn tử v.v... Những hàng tà kiến không có tin Phật, được nghe chánh pháp này khiến họ khởi sanh lòng tin sâu xa, quy hướng về Phật mà sanh chánh kiến, rõ biết chánh pháp.

Ngài lại nói:

–Này Xá Lợi Phất! Tôn giả hãy nên thuyết giảng rộng khắp như vậy.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Tôn giả Xá Lợi Phất xong rồi thì ngồi im lặng. Tôn giả Xá Lợi Phất, nương vào oai lực của Phật, nói pháp này xong, lạy Phật lui ra. Khi ấy, những vị ở trong hội chúng được nghe chánh pháp, hoan hỷ đảnh lễ, tín thọ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23960)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41218)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27504)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26570)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20192)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25770)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31318)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38577)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21437)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44258)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29825)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42201)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22139)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45756)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32109)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23954)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24391)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33917)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27680)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21064)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21580)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21434)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19497)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19245)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29181)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20620)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28298)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33183)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21374)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21549)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19376)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26394)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24823)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22384)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22554)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21238)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35321)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31341)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant