Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiện Ác Nghiệp Báo

12 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 21382)
Thiện Ác Nghiệp Báo

THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

(CHƯ KINH YẾU TẬP)

Đại Chánh Tân Tu số 2123

Nguyên tác: Pháp Sư Đạo Thế

Việt dịch: Ban dịch thuật Hán tạng Pháp Âm

Chủ nhiệm: Tỳ kheo Thích Nguyên Chơn

Phó chủ nhiệm (Hiệu đính văn nghĩa): Bồ-tát giới Định Huệ

Biên tu: Tiến sĩ Quảng Âm - Đoàn Ánh Loan

thien_ac_nghiep_bao_0

TỰA


Ngày xưa, lúc Sơ tổ mới sang Trung Hoa, nghe nói Lương Vũ đế là vị vua anh minh, kính tin Phật pháp, giỏi giảng kinh thuyết pháp, viết luận tạo sớ…, Tổ bèn đến gặp. Vừa diện kiến, Vũ đế liền hỏi Sơ tổ rằng: “Trẫm đã xây chùa, tạo tượng, chép kinh, cho phép mọi người xuất gia, lập trai hội lớn. Như vậy có công đức chăng?”. Sơ tổ đáp: “Không có công đức!”. Vũ đế hỏi: “Vì sao không có công đức?”. Tổ đáp: “Bởi các việc làm này chỉ đưa đến phúc quả nhỏ, sanh vào cõi trời người. Như bóng theo hình, tuy có nhưng chẳng thật”. Vũ đế lại hỏi: “Thế nào là công đức chân thật?”. Tổ đáp: “Trí tuệ thanh tịnh, tròn sáng nhiệm mầu, lìa có và không. Công đức như thế, chẳng thể dùng pháp thế gian để mong cầu”.

Sở dĩ Lương Vũ đế bị Sơ tổ trách, vì Đế đã đứng trên cương vị một hoàng đế giỏi, hiểu Phật pháp, làm được rất nhiều việc thiện, chứ không phải ở vị trí một hành giả cầu đạo chân thật mà hỏi câu ấy. Ngữ khí của câu hỏi mang hơi hám tự thị, chấp chặt, cho mình là bậc nhất. Tổ muốn Đế không sống mãi với những việc đã làm, mà phải lìa bỏ, hướng đến chí đạo, nên mới trả lời như thế. Một câu chưa thấm, Đế lại hỏi: “Thánh đế đệ nhất nghĩa là gì?”. Tổ lại thêm một câu: “Rỗng không, không có gì gọi là thánh”. Không công đức, lại không có Thánh, thật đã làm cho Đế mờ mịt. Lâu nay Vũ đế sống với cái có ấy, nào là có công đức, có Thánh vị để chứng, có thánh nghĩa để ngộ, có thánh cảnh để dạo chơi… Tổ muốn Đế vượt qua những quan niệm ấy để đạt đến chỗ rốt ráo, nên trả lời như thế. Đến đây mà Đế vẫn chưa tỏ ngộ, cũng chẳng khởi nghi tình thì Tổ cũng hết thuốc, bèn lên Thiếu Thất ngồi quay mặt vào vách chín năm.

Thật ra, Tổ không xem thường những pháp thiện này, ngài chỉ phá chấp cho Vũ đế. Bởi tự thân pháp thiện không thuộc hữu lậu hay vô lậu, hữu hay vô đều do tâm người hành thiện mà thôi. Như một việc giảng kinh thuyết pháp, Vũ đế thực hiện thì được công đức hữu lậu, nếu Sơ tổ làm thì vô lậu. Như độ tăng, Vũ đế làm thì hữu lậu, Sơ tổ độ thì vô lậu. Tóm lại, khi chưa “Đại tử nhất phiên” thì tất cả những việc làm đều hữu lậu, cho nên cần phải mượn tâm hành hữu lậu để đạt đến vô tâm vô lậu. Hơn nữa, biết Vũ đế ở đời này đã đạt được nền tảng thiện nghiệp vững chắc từ những Phật sự trên, nên Tổ muốn Vũ đế từ nền tảng này mà vượt lên, bước vào cõi chơn không, cho nên mới nói Không.

Nếu nhất tâm vì đạo, vì người thực hiện những việc thiện như: giảng kinh, thuyết pháp, bố thí cúng dường, in ấn kinh điển, xây chùa tạo tượng… sẽ được vô lượng phước báu, cũng là tạo nền tảng để mau đạt đến giải thoát. Bởi nếu tạo ác thì tâm luôn bất an, tâm đã bất an thì mọi sự không thành; hành thiện vì đạo, vì người thì tâm luôn an vui, tâm đã an vui thì làm việc gì cũng dễ thành tựu, cho đến tu đạo xuất thế cũng vậy. Nếu Bồ-tát không hoàn thành những pháp thiện: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì nhất định không thể đạt đến quả Phật. Nếu phàm phu không thực hiện các điều thiện: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, hoặc không thật tu mười điều thiện thì không thể có được an lạc đời này và đời sau.

Ngày nay, trong thời Mạt pháp, xã hội lại cực kì loạn động, bất an. Khắp nơi, nào là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo, tất cả đều nguy hại đến thân. Trong Phật pháp, thân người rất quí, là kết quả của việc giữ gìn năm giới, mười giới, là chỗ nương để tu tập giải thoát. Nhưng hiện nay, thế gian này không quí mạng người, xem nhẹ hiếu nghĩa, chỉ cần một lời cải cọ, một va chạm nhỏ, một chút lợi trước mắt, một sự ham muốn nhất thời cũng đều có thể gây ra nghiệp ác. Vì sao? Vì tất cả không hiểu, không tin nhân quả nhiều đời, đã không tin không hiểu nhân quả nhiều đời thì không thích việc thiện sợ điều ác, không thích thiện sợ ác thì không việc ác nào mà không làm, không việc thiện nào mà không chối bỏ. Trong gia đình có người bất thiện thì gia đình không an vui hạnh phúc, trong xóm thôn có người bất thiện thì xóm thôn ấy bất an, trong một quốc gia có nhiều người bất thiện thì quốc gia ấy sẽ không thái bình, thịnh vượng. Như vậy phải từ con ngườixây dựng nền tảng chí thiện cho xã hội, cho quốc gia. Hễ con người thuần thiện thì gia đình cho đến quốc gia, rộng hơn là thế giới sẽ tốt đẹp.

Nếu chúng ta, mỗi mỗi người thực hiện pháp thiện hữu lậu, tức luôn luôn tác ý thiện, nói lời thiện, làm việc thiện. Cứ như thế, không gián đoạn, thì đến một lúc nào đó, thiện này sẽ trở thành tập tánh, giống như đói ăn khát uống vậy. Bấy giờ tâm không nghĩ thiện mà thân vẫn làm thiện, miệng vẫn nói lời thiện. Mọi việc làm và lời nói đều hợp với thiện, đều vì lợi ích của tất cả mọi người. Như thế há chẳng trở thành bậc Hiền thánh sao?

Những gì mà Phật giáo cho là thiện, cho là bất thiện? Hành thiện như thế nào đúng pháp? Hành thiện thì đời này, đời sau được những gì, gây ác thì đời này, đời sau chuốc hoạ gì? CHƯ KINH YẾU TẬP sẽ giải đáp cho chúng ta thấu đáo vấn đề này.

CHƯ KINH YẾU TẬP hay THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO LUẬN, một tác phẩm của ngài Đạo Thế. Ngài đã tuyển chọn những đoạn Kinh, Luật, Luận, Truyện kí… thiết yếu liên quan đến thiện ác nghiệp báo ba đời rồi thêm lời bình mà thành bộ sách này. Để cho người đọc dễ nắm bắt được nội dung trước khi xem đọc, ban Dịch thuật chọn bốn chữ THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO làm đề mục cho dịch phẩm.

Tạm cho đây là một dịch phẩm lớn, chứa đựng nhiều thể loại: văn tựa, luận nghị, thi kệ, tán tụng, truyện kí… với sự tham gia của nhiều thành viên ban dịch thuật, nên về mặt nhất quán ngôn từ, nhất quán cách hành văn, giọng văn, chất văn hẳn không được hoàn toàn như ý, dù đã mời nhiều người và nhiều lần xem đọc trước khi cho in ấn lưu hành. Kính xin người đọc hoan hỉ chỉ chánh cho.

Chúng tôi cũng xin cảm niệm công đức của Đài Trung liên xã, đạo tràng Niệm Phật Tùy Duyên, nhóm bảo trợ dịch thuật Pháp Loa, Phật tử Thiện Ân, Phật tử Phương Tú và nhất là cố Phật tử Hoàng Mạnh Hùng pháp danh Thiện Chí đã trợ duyên dịch thuật, in ấn lưu truyền tác phẩm này.

Xin hồi hướng công đức này đến tất cả chúng sanh, giúp hiện đời tịnh hoá thân tâm, hành thiện an vui, lâm chung tuỳ ý sanh về quốc độ hữu duyên giáo hoá hữu tình đồng thành Phật đạo.


Từ Nghiêm ngày 19 tháng 3 năm Kỉ Sửu (13/04/2009)

Nguyên Chơn kính ghi

 

***

GIỚI THIỆU CHƯ KINH YẾU TẬP

(Thiện Ác Nghiệp Báo Luận)


Chư Kinh Yếu Tập còn có nhan đề Thiện Ác Nghiệp Báo Luận, 20 quyển do sa môn Đạo Thế ở chùa Tây Minh biên tập vào niên hiệu Hiển Khánh đời Đường (656 – 660) được thâu nhập vào Đại Chính Tạng quyển 54.

Đạo Thế tự Huyền Uẩn, họ Hàn, nguyên quán Y Khuyết (nay là Tây Nam, huyện Y Xuyên, tỉnh Hà Nam) nhân vì ông nội làm quan nên gia đình dời về Trường An. Năm 12 tuổi, Sư xuất gia ở chùa Thanh Long chuyên nghiên cứu Luật bộ, sưu tầm kinh sách. Vào khoảng niên hiệu Hiển Khánh (656 – 661), Sư nhận chiếu tham dự dịch trường của Tam Tạng pháp sư Huyền Trang. Về sau, Sư vào chùa Tây Minh cùng ngài Đạo Tuyên xiển dương Luật tông. Ngài trứ tác 11 bộ sách, tổng cộng 154 quyển, trong số đó các sách đã bị thất truyền gồm có: Đại Tiểu Thừa Thiền Môn Quán (10 quyển), Thụ Giới Nghi Thức (4 quyển), Lễ Phật Nghi Thức (2 quyển), Đại Thừa Lược Chỉ Quán (1 quyển), Biện Ngụy Hiển Chân Luận (1 quyển), Kính Phúc Luận (3 quyển), Tứ Phần Luật Ni Sao (5 quyển), Kim Cang Bát-nhã Tập Chú (3 quyển). Hiện còn Chư Kinh Yếu Tập (20 quyển), Tỳ-ni Thảo Yếu (6 quyển) và Pháp Uyển Châu Lâm (100 quyển).

Chư Kinh Yếu Tập là một tác phẩm trích lục trong kinh sách Phật những điều liên quan đến giáo pháp, tu hành, nghi quỹ và luận thuật các việc liên quan đến thiện ác nghiệp báo rồi chia thành các thiên. Toàn thư được chia làm 30 bộ loại: Kính Tam Bảo (17 mục), Kính Pháp (7 mục), Nhiếp Niệm (4 mục), Nhập Đạo (4 mục), Bái Tán (3 mục), Hương Đăng (4 mục), Thụ Thỉnh (8 mục), Thụ Trai (2 mục), Phá Trai (2 mục), Giàu Sang (2 mục), Nghèo Hèn (2 mục), Khích Lệ (7 mục), Báo Ân (3 mục), Phóng Sinh (4 mục), Làm Phúc (6 mục), Chọn Bạn (5 mục), Nghĩ Kỹ (5 mục), Lục Độ (20 mục), Nghiệp Nhân (5 mục), Tham Dục (3 mục), Tứ Sinh (6 mục), Thụ Báo (9 mục), Thập Ác (10 mục), Dối Gạt (6 mục), Biếng Nhác (3 mục), Rượu Thịt (3 mục), Xem Tướng (3 mục), Địa Ngục (8 mục), Tống Chung (9 mục), Linh Tinh (13 mục). Tổng cộng 185 mục.

Đặc điểm của Chư Kinh Yếu Tập là tính lý luận, là tính thuật tác.

Về tính lý luận, trong sách này trích lục nguyên văn Kinh, Luật, Luận Phật giáo liên quan đến ý nghĩa, nội dung, yêu cầu, phương pháp tu hành của người tại giaxuất gia. Tuy nhiên, trong đó chẳng thiếu ví dụ, ngụ ngôn và truyện tích, nhưng chúng đều được xiển thuật theo lý luận của giáo pháp, giáo quy, đồng thời chẳng tự thành hệ thống cũng chẳng chiếm địa vị chủ đạo. Lý luận được đề cập đến rất rộng rãi, có hàm nghĩa kính trọng Phật, Pháp, Tăng; quy tắc nhiễu tháp, nhập tự; phương pháp nhiếp niệm, kiềm chế dục vọng; công đức đốt hương, cúng Phật, thụ trai, phóng sinh; ba đường ác của nghiệp thân phạm thập ác; nghiệp nhân giàu sang, nghèo hèn; yếu chỉ của lục độ Đại thừa; bốn loài (noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh) của hữu tình chúng sinh; nguyên lý và chủng loại của nghiệp báo; nhiếp ý của địa ngục, sinh hoạt thức ngủ ăn uống của người xuất gia.

Về tính thuật tác, Chư Kinh Yếu Tập tuy lấy việc trích lục kinh văn làm chủ thể nhưng có nhiều chỗ trong nội dung là do tác giả trứ thuật, có tư tưởng lý giải của tác giả trong đó. Trong tác phẩm này, trừ bộ loại Thập Ác ra, 29 bộ loại kia mở đầu đều có phần dẫn nhập do soạn giả viết để lược thuật đại ý của một bộ hoặc một thiên, có tác dụng nêu lên cương lĩnh. Lại nữa ngoài phần dẫn nhập, y cứ vào nội dung của kinh văn biên định trong các mục cũng có phần do tác giả trứ tác. Các phần này mở đầu có hai chữ “thuật viết” đặt ở đầu của nguyên văn được trích lục.

Nguồn gốc tư liệu của Chư Kinh Yếu Tập trích lục từ Kinh, Luật, Luận Hán dịch. Do vì tác giả nghiêng nặng về trình bày giáo lý cho nên chỉ chọn lấy phần nhiều là luận như: luận Đại Trí Độ, luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, luận Đại Trang Nghiêm, luận Du-già-sư-địa, luận Kim Cang Cương, luận Thành Thật, luận Câu-xá, luận Địa Trì, luận Thi Thiết, luận Giải Thoát Đạo, luận Tân Bà-sa v.v… Về Luật thì có trích dẫn luật Tứ Phần, luật Thập Tụng, luật Ma-ha Tăng-kì, kinh Phạm Võng, kinh Bồ-tát Thiện Giới, kinh Ưu-bà-tắc Giới v.v… Về kinh thì các kinh Phật trích lục như kinh A-hàm, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Đại Tập, kinh Phổ Diệu, kinh Hiền Ngu, kinh Tạp Bảo Tạng, kinh Vị Tằng Hữu v.v…, ngoài ra còn có các kinh chưa thấy ghi trong kinh lục như: kinh Xá-lợi-phất Xử Thai, kinh Đại Thừa Liên Hoa Tạng, kinh Nhật Vân.

Ngoài Kinh, Luật, Luận, Chư Kinh Yếu Tập còn trích lục Tây Quốc Hành Truyện của Vương Huyền Sách đời Đường, Cao Tăng Truyện của Huệ Kiểu đời Lương, Tây Vực Kỳ-hoàn Tự Đồ của Đạo Tuyên đời Đường, Thượng Thư của Nho gia (trong phần Thuật viết) có dẫn Lễ Ký, Tả Truyện, Hoài Nam Tử.

Lúc Đại sư Ấn Quang (1862-1940) còn tại thế, Ngài thường khuyên các đệ tử chú trọng đến tội phước nhân quả, nên Ngài giới thiệu Pháp Uyển Châu Lâm của ngài Đạo Thế cho mọi người, như trong thư đáp Đặng Tân An, Đại sư viết: “ Đến như lúc xử sự bình thường hoặc sợ làm tội không hay, giảm phúc không biết, nên đọc bộ Pháp Uyển Châu Lâm tất sẽ nắm được khuôn phép để giữ gìn, tâm niệm không dám buông lung nữa” (Ấn Quang Văn Sao). Nhưng bộ Pháp Uyển Châu Lâm dày đến 100 quyển, thiết nghĩ không tiện cho người hiện nay thời giờ eo hẹp duyệt đọc, cho nên Ban Dịch Thuật chọn tác phẩm Chư Kinh Yếu Tập (tức Thiện Ác Nghiệp Báo Luận) 20 quyển có cùng một nội dung và cũng cùng một soạn giả phiên dịch ra tiếng Việt có phụ thêm phần cước chú để cống hiến cho bạn đọc xa gần.

Nguyện tập sách này được nhiều người thấy nghe rồi vâng làm theo lời Phật dạy, hiện đời thân tâm an lạc, sống trong thế giới hòa bình hạnh phúc, sau khi bỏ báo thân này sinh về cõi Phật thanh tịnh.


Tu viện Huệ Quang, ngày 15 tháng 3 năm Kỉ Sửu (9/4/2009)

Định Huệ
kính ghi


***

GIÁ TRỊ CỦA THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

(CHƯ KINH YẾU TẬP)


Chúng tôi có được nhân duyên rất lớn và may mắn được làm việc với ban Dịch thuật Hán tạng Pháp Âm. Nói may mắn, vì lâu nay có được mấy cơ hội Phật giáo Việt Nam thành lậpduy trì được dịch trường Hán tạng qui củ, chuyên nghiệp, có đào tạo, thi tuyển? Tôi càng may mắn hơn khi được đọc qua bản dịch quyển Thiện ác nghiệp báo (tên gọi khác của Chư kinh yếu tập do pháp sư Đạo Thế đời Đường biên tập từ những bộ kinh Đại thừa quan trọng). Đối tượng độc giả của quyển sách này không hạn chế trong phạm vi của người xuất gia hay kẻ tại gia, người tu Phật hay không tu Phật, tất cả những ai nếu đã đọc qua quyển sách này chắc chắn sẽ có được sự lợi ích. Chỉ ở điểm này thôi cũng tạo nên giá trị lớn cho tác phẩm khá đồ sộ này.

Cách trình bày từng vấn đề cụ thể được sắp xếp theo trình tự:

1. Đặt vấn đề dựa vào lý luận kinh điển.

2. Đi vào từng đề mục cụ thể, chi tiết.

3. Định nghĩa, lý giải, dẫn chứng kinh điển.

4. Xen kẽ có những bài kệ tụng tóm gọn nội dung vừa nêu.

5. Mở rộng phạm vi nội dung đến những điều có liên quan.

Giá trị của quyển sách không chỉ dừng lại ở đó, bởi tính giáo dục, thực tiễn, tính lý luậnphương pháp thực hành giúp con người hướng thiện, làm lành lánh ác, tu tập, giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, được trình bày hết sức cụ thể, sinh động, dễ đi vào lòng người. Đó là những bài học đạo đức được nói đến như những tấm gương soi rọi qua sự tái hiện nhiều câu chuyện sinh động và sâu sắc từ kinh, luật, luận, có liên hệ thực tế đến từng vấn đề cụ thể. Chẳng hạn, kinh A-xà-thế vương thụ quyết nói đến chuyện bà già nghèo xin được hai đồng tiền liền mua dầu cúng dường Phật Thích-ca, rồi phát nguyện: “Nếu đời sau tôi đắc đạo giống như Đức Phật, thì xin số dầu này được cháy sáng suốt đêm không hết”. Quả nhiên, ngọn đèn của bà chẳng những cháy suốt đêm không tắt, mà còn rực sáng hơn các ngọn khác.

Giá trị khoa học của tác phẩm nổi bật hơn cả ở sự trình bày phương pháp ứng dụng những lời Phật dạy cho từng việc làm, hành động cụ thể và tính lý luận được thể hiện khá sâu sắc, cách lập luận vững vàng, sắc bén, chặt chẽ, đúng pháp. Ngoài ra, sự uyên bác của tác giả còn thể hiện ở khả năng liên hệ đến những vấn đềliên quan đến chủ đề chính, khiến người đọc vừa lòng, thú vịvấn đề được trình bày khá đầy đủ, trọn vẹn. Điểm đặc biệt khác lôi cuốn người đọc là tác giả biết khai thác những chi tiết và khía cạnh cụ thể, cho nên dù nói đến những điều tưởng chừng khá quen thuộc như: làm thế nào khi đến chùa, cách lễ Phật, thắp hương, đốt đèn, treo phan, điều kiện thuyết pháp, nghe pháp, cúng dường đúng pháp, thực hành năm giới cấm, cách ăn uống… cũng trở thành mới mẻ, người đọc cảm thấy dường như chưa từng biết qua. Tâm trạng này không chỉ có ở độc giả tại gia mà người xuất gia cũng cảm nhận như thế. Ví dụ, khi dạy về tác dụng của việc treo phan, kinh Phổ Quảng có ghi: “Khi nhà có người lâm chung hoặc đã qua đời, thì ngay trong ngày mất, quyến thuộc của họ treo tràng phan màu vàng trên tháp, thì người ấy được phúc đức, xa lìa tám nạn khổ, được sinh trong cõi nước của chư Phật ở mười phương. Khi tràng phan vừa xoay, người ấy sẽ được ngôi vị Chuyển luân thánh vương. Tràng phan tung bay theo gió, rách nát hết, cho đến thành từng hạt bụi nhỏ, người ấy liền được ngôi vị tiểu vương. Người nhà cũng nên đốt đèn cúng dường, chiếu sáng những nơi tăm tối, giúp cho chúng sinh đau khổ nhờ ánh sáng này mà thấy nhau và được an ổn”. Điều này chưa thấy nói trong các kinh sách Tịnh độ, đặc biệt là sách hướng dẫn trợ niệm cho người lâm chung.

Nét đặc sắc của nghệ thuật trình bày tác phẩm còn thể hiện qua tác dụng hòa nhập. Bất kể vấn đề nào tác giả nêu ra có vẻ như sâu mầu, cao xa, nhưng lại giản dị, gần gũi, khiến người đọc cảm thấy như có mình ở trong từng hoàn cảnh, được cảnh tỉnh, dạy bảo, không còn phân biệt vấn đề này dành cho người xuất gia hay tại gia nữa. Chẳng hạn oai nghi của người tu Phật ảnh hưởng thế nào đến niềm tin người xung quanh; hay những trò đùa vui, những hành động vô tình hay hữu ý tạo ác nghiệp đều gây nên hậu quả xấu đến nhiều kiếp về sau…

trình độ Phật học nào độc giả cũng đều gặt hái được lợi ích từ quyển sách này. Người xuất gia có thể dùng sách này làm đề tài giảng pháp, có thể sử dụng những dẫn chứng sinh động để thu hút người nghe. Kẻ tại gia có được những bài học giác ngộ, giải thoát quí báu cho hành động, suy nghĩ, lời nói của mình qua từng câu chữ, từng trang sách sáng ngời tính giáo dục. Mỗi vấn đề được đặt ra đều có thể là cẩm nang cho việc tu sửa thân tâm, tinh tiến để trở nên thanh tịnh bồ-đề hoàn thiện, không cấu uế, nhiễm ô; còn được thâm nhập Phật pháp trong từng sát-na, mọi hành động đều mang tính Phật pháp, lợi ích cho mình cho người một cách tự nhiên như gió, như mây, cao rộng, sâu thẳm như núi sông, biển cả…

Góp phần tạo nên những giá trị quí báu như đã nêu trên cho quyển sách này, không thể không nói đến sự nỗ lực to lớn của tập thể ban Dịch thuật Hán tạng Pháp Âm. Tuy mỗi thành viên phụ trách dịch thuật các phần, quyển khác nhau, nhưng nhìn chung, văn phong nhất quán, trong sáng, ý văn mạch lạc, diễn dịch nhiều vấn đề mang tính lý luận sâu xa trở thành dễ hiểu, gần gũi với nhiều đối tượng độc giả. Có rất nhiều đoạn dịch văn sâu sắc, mang tính hình tượng rõ nét và sống động, tạo tính thú vị, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Đó là lợi ích to lớn đầu tiên mà người đọc thấy được từ trang sách đầu tiên…

Xin thành tâm cảm niệm công đức của tác giả (pháp sư Đạo Thế đời Đường) và ban dịch thuật Hán tạng đã cống hiến cho độc giả nói chung, cho người tu Phật xuất gia, tại gia vốn pháp bảo bao quát nhiều phương diện quan trọng và hết sức sâu sắc này.


Ngày 26 tháng 4 năm Kỷ Sửu (20/5/2009)

Quảng Âm- Đoàn Ánh Loan
kính ghi


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27210)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21812)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22269)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20470)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20081)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21972)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24791)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19026)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24800)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31015)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24025)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27797)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26566)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21386)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23252)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38192)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18822)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18455)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19076)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23213)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23920)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22849)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22962)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29623)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18746)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15874)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18883)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19711)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20199)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19980)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18151)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22989)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34219)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16451)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16952)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39304)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26129)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20136)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18885)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29185)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22935)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31004)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21048)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26892)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20716)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26295)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23363)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19846)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24708)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20250)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20438)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15169)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15855)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23935)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19886)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant