Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thiện Sinh Tử

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14270)
Kinh Thiện Sinh Tử


KINH THIỆN SANH TỬ


Đại Chánh Tân Tu số 0017 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Sa môn Chi Pháp Ðộ (đời Tây Tấn)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

Nghe như vầy:

Một thời Chúng Hựu (Thế Tôn) du hóa tại núi Kỳ xà quật, thuộc thành La duyệt kỳ (Vương xá). Bấy giờ cư sĩ Thiện Sanh, bệnh tật nguy cấp, bảo con:

–Sau khi cha mất, con phải hướng sáu phương mà lễ bái.

Cư sĩ Thiện Sanh ngay ngày hôm sau thì qua đời. Người con bèn cung kính lo việc chôn cất, cúng dường tang sự xong, liền dậy sớm, tắm rửa, mặc áo mới, đứng trên bờ sông lễ bái sáu phương, nói:

–“Tôi cung kính những chúng sanh ở phương Ðông, những chúng sanh ấy cũng lễ bái cung kính tôi”. Giáp vòng các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên và Dưới, phương nào cũng nói như vậy.

Bấy giờ vào buổi sáng sớm, đức Phật đắp y, ôm bát vừa muốn vào thành thì thấy con của cư sĩ Thiện Sanh đứng trên bờ sông lễ bái sáu phương, nói như vậy... Chúng Hựu liền đến và hỏi:

–Này con ông cư sĩ, ngươi nghe ai nói mà lại dậy sớm, tắm rửa, mặc áo mới, đứng trên bờ bái yết sáu phương, tự nói lên lời cung kính lễ bái? Lạy các phương xong lại tắm, ngươi cung kính vị pháp sư nào vậy, này Thiện Sanh tử?

Thiện Sanh tử thưa:

–Cha con khi sắp mất, trước có dạy như vậy, cho nên con làm theo, chứ không nghe theo thầy nào cả.

Chúng Hựu bảo:

–Này con ông cư sĩ! Lời nói của cha ngươi không phải là sáu phương này. Vả lại sớm vướng tình dục nơi sáu phương, như có hành vi xấu ác, cấu uế của bốn mặt không thể sám hối. Như vậy thì thân này chết tinh thần sẽ sanh vào trong cõi ác như địa ngục. Phàm con người vì bốn việc này mà bị lao khổ, cần phải biết rõ.

Những gì là bốn?

_Một là ham thích sát sanh;

_Hai là ham thích trộm cắp;

_Ba là tà hạnh dâm dục;

_Bốn là thích nói dối.

Phật nói kệ tụng về ý nghĩa này:

Sát sanh cùng trộm cắp,

Lừa dối và nói láo,

Chạy theo vợ người khác

Kẻ trí không khen ngợi.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn việc đưa đến nẻo ác. Những gì là bốn?

_Một là tham dục;

_Hai là giận dữ;

_Ba là si mê;

_Bốn là sợ hãi.

Bài kệ tụng về ý nghĩa này:

 Có dục, sân, si, sợ 

 Không lãnh thọ chánh pháp,

 Do đó tiếng xấu xa, 

 Như trăng khuyết không tròn,

 Không dục, sân, si, sợ, 

 Lại thừa lãnh chánh pháp,

 Do đó danh tiếng thơm, 

 Như vầng trăng tròn đầy.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có sáu tai hoạ làm tiêu tán tiền tài, đi vào đường ác cần phải biết. Những gì là sáu?

_Một là thích rượu, phóng dật;

_Hai là vào phòng người khác không đúng lúc;

_Ba là đam mê cờ bạc;

_Bốn là đam mê kỹ nhạc;

_Năm là có bạn ác;

_Sáu là trễ nải lười biếng.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Uống rượu vào phòng khác,

 Thích bài bạc, ca xướng,

 Bạn ác cùng lười biếng

 Bậc Thánh không khen ngợi.

Phàm rượu có sáu việc nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Làm tiêu hao tiền bạc. 

_Ðưa đến bệnh hoạn.

_Khởi tranh chấp

_Sân hận nhiều.

_Mất tiếng tốt.

_Hao tổn trí não.

Ðã có những xấu ác này sẽ khiến phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến rồi thì tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Dâm tà có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Không tự bảo vệ được thân mình.

_Không bảo vệ được vợ con.

_Không bảo vệ được gia đình quyến thuộc.

_Do nghi ngờ sanh ra xấu ác.

_Oan gia có được cơ hội.

_Các khổ vây quanh.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ khiến phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Vui chơi cờ bạc có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Thắng thì sanh oán.

_Thua thì nổi nóng.

_Bạn bè thì lo lắng.

_Oan gia thì vui mừng.

_Vào tù ngục ưu phiền.

_Mọi người đều nghi ngờ.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Ham mê ca nhạc có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Tâm trí thích múa,

_Tâm trí thích ca,

_Tâm trí thích đàn,

_Tâm trí thích âm điệu,

_Tâm trí thích trống,

_Tâm trí thích những việc như vậy.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Bạn ác có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Tập chuyện say sưa mê muội;

_Tập khiến hôn loạn,

_Tập theo nẻo buông lung,

_Tập theo đến quán rượu,

_Làm quen với kẻ tiểu nhơn,

_Tập quen với lời nói thô bỉ.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Biếng nhác có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Ăn no không chịu làm việc,

_Ăn đói không chịu làm việc,

_Lạnh không chịu làm việc,

_Nóng không chịu làm việc,

_Sáng không chịu làm việc,

_Tối không chịu làm việc.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch. Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Ưa sắc, nhạc, ca múa

Ngày ngủ đêm đi chơi

Bạn ác cùng làm ác

Kẻ ấy tổn hại lớn.

Cờ bạc rượu rối loạn

Theo đuổi vơ của người

Xa hiền gần kẻ ngu

Tổn hại như trăng khuyết

Thân tự kiêu tự đại

Hủy diệt đạo Sa môn

Tà kiếnkeo kiệt

Ðó là kẻ tà mạn.

Phàm rượu hao tiền của

Ít lợi uống thêm khát

Bệnh rượu thêm nợ nần

Thân nguy loạn mau chóng.

Hoặc vì rượu kết bạn

Hoặc vì rượu phạm pháp

Muốn được lợi, tốt đẹp

Với rượu phải lo chừa.

Hoặc ngày như giữ giới

Tối lại trộm tà hạnh

Cũng tại vì lò rượu

Như vậy chớ có thân.

Chẳng theo đúng nóng lạnh

Như cỏ chẳng quý mình

Tinh tấn tu sự nghiệp

Như thế lợi mà hại.

Nếu chịu được nóng lạnh

Như cỏ chẳng quý mình

Tinh tấn tu sự nghiệp

Ðã an lại có ích.

Ði xuống của dần tiêu

Ði lên chưa từng tổn

Dốc theo bậc tôn quý

Vì thiện nên được thiện.

Lành lớn được tạo nên

Thành thật tập hạnh lành

Thân thích đều mến ưa

Thờ giới diệt điều ác.

Cho nên cần phải tập

Ðã làm rồi lại làm

Cùng thân thích đi lên

Như ngôi vua cao cả.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn loại giống như bạn nhưng không phải là bạn cần phải biết. Những gì là bốn?

_Hãy chọn lấy vật lạ;

_Nói lời nịnh hót;

_Vì muốn làm đẹp mặt mình;

_Vì mình chỉ bày những lời sai quấy.

 Bài tụng về ý nghĩa này:

 Bạn nhằm lấy vật lạ

 Nói đẹp để êm tai

 Gặp nhau toàn nịnh hót

 Lời tà càng hiểm nguy.

 Ðó chẳng phải là bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải xa lìa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn hay chọn lấy vật lạ cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Tham chọn lấy vật ấy

_Cho ít mà mong cầu nhiều.

_Vì sợ sệt nên theo mình.

_Vì điều lợi nên theo mình

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Phàm giữ lấy vật lạ

Cho ít mà mong nhiều

Do sợ, lợi nên theo

Kẻ tham lam đúng nhĩa.

Ðấy chẳng phải là bạn 

Người trí không hết thân

Ðã biết nên xa lìa

Như ra khỏi đường xấu.

Bạn nói lời nịnh hót, cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Nói đời tư kẻ khác

_Giấu đời tư của mình;

_Ngoài mặt giả khen tốt;

_Quay lưng thì bài xích.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Thích nói đời tư người

 Ðời tư mình thì giấu

 Ngoài mặt giả khen tốt

 Sau lưng lại nói xấu.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn vì muốn làm đẹp mặt mình cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Nói việc dở đã qua của người khác;

_AÂm thầm tìm lỗi ở tương lai;

_Cho mà không thật lòng;

_Mong cho người gặp nguy hiểm.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Làm điều không thể làm

 Bất lợi nên nói nịnh

 Cho nhưng không thật lòng

 Mong người nguy nhờ mình.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn tà giáo cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Khuyên người sát sanh;

_Khuyên người trộm cắp;

_Khuyên người tà dâm;

_Khuyên người dối láo.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Sát sanh cùng trộm cắp

 Dối trá và nói láo

 Theo đuổi vợ của người

 Khuyên người làm như vậy.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn loại bạn vì lòng nhân từ sáng suốt, muốn lợi người cần phải biết. Những gì là bốn?

_Một là cùng khổ cùng vui;

_Hai là cả hai cùng lợi;

_Ba là vì hưng thạnh bổn nghiệp;

_Bốn là vì lòng nhơn từ thương xót.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 An nguy cùng có nhau

 Nhằm mục đích thiện lợi

 Dốc vì sự nghiệp bạn

 Thương xót dẫn đường chánh.

 Những người bạn như vậy

 Kẻ trí tập học hỏi

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn cùng khổ cùng vui, nên lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Cho những vật báu của mình;

_Cho tài lợi đối với vợ con;

_Cho những vật nhà mình;

_Nói trung thực nhẫn nhịn.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Cho tài lợi của mình

 Có tài lợi cũng cho

 Cho tài lợi nhà mình

 Nói trung thực nhẫn nhịn.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn có lợi cùng hưởng cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Không nói đời riêng kẻ khác;

_Không giấu đời tư của mình

_Gặp nhau nói điều thiện

_Bài xích lối nói hai chiều.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Không nói đời tư người

 Không giấu đời tư mình

 Gặp nhau nói điều thiện

 Bài xích nói hai chiều.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn cho bổn nghiệp cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Vì lợi mà hành động;

_Vì sức lực mà hành động

_Buông lung thì can ngăn

_Lấy điều thiện để nuôi dưỡng.

Bài tụng về ý nghĩa này: 

 Hành động vì tài lợi

 Dùng sức giúp an ổn

 Cắt đứt sự buông lung

 Nuôi dưỡng thiện chí bạn.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn nhơn từ thương xót cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu đức tin;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu giới;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu văn;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu thí.

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

 Ðạo tín, giới, văn, thí

 Hằng đem khuyến hóa người.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Phàm ở phương Ðông như con thờ cha mẹ. Do đó con phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với cha mẹ. Những gì là năm?

_Nhớ nghĩ báo đáp việc nhà;

_Phải lo thay thế gánh vác

_Phải biết an ủi can ngăn

_Chỉ mong được cung cấp, nuôi dưỡøng cha mẹ

_Chỉ vui khi thấy cha mẹ.

Cha mẹ lại lấy năm việc để yêu thương con cái. Những gì là năm?

_Hãy tạo cơ nghiệp;

_Cùng lo tài lợi;

_Lo dựng vợ gả chồng;

_Dạy học theo kinh sách đạo lý;

_Ðem của cải phó thác cho con.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Ðông, được pháp của các bậc Thánh xưa chế ra, làm con phải hiếu thảo, làm cha mẹ phải từ ái thương yêu, kẻ sĩ trượng phu mong lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương Nam như đệ tử thờ Thầy, do đó đệ tử phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với Thầy. Những gì là năm?

_Phải hết lòng lắng nghe lời chỉ dạy

_Hãy yêu sự học,

_Phải siêng năng hầu hạ,

_Ðừng hành động sai trái,

_Hãy cúng dường Thầy.

Thầy lại lấy năm việc để thương yêu giáo dục đệ tử. Những gì là năm?

_Dạy đệ tử học những điều mình đã học,

_Lấy nghề hay truyền cho đệ tử,

_Khiến đệ tử siêng năng học hành,

_Dẫn dắt đệ tử đi con đường lành;

_Chỉ vẽ cho đệ tử biết những bạn hiền quen thuộc.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Nam, được pháp của các Thánh xưa chế định, làm đệ tử phải khiêm cung, làm Thầy phải lấy lòng nhơn từ để dạy dỗ. Kẻ sĩ trượng phu mong được lợi ích mà pháp lành không suy thối.

Phàm ở phương Tây như chồng đối với vợ. Do đó chồng phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với vợ. Những gì là năm?

_Hết lòng kính mến,

_Không giận dữ về ý của vợ;

_Không có ngoại tình với kẻ khác;

_Ðúng lúc cấp y phục, thức ăn;

_Ðúng thời cho những đồ trang sức báu.

Vợ lại có mười bốn điều để thờ chồng. Những gì là mười bốn?

_Khéo làm việc.

_Khéo tác thành mọi sự việc,

_Gìn giữ tài sản chồng giao phó,

_Gà gáy phải lo dậy,

_Tối thì đi ngủ,

_Làm việc phải học hỏi,

_Phải đóng cửa hầu chồng,

_Phải hầu thăm sức khỏe khi chồng đi xa về.

_Nói lời hòa nhã,

_Ngôn ngữ êm tai,

_Giường ghế phải ngay thẳng,

_Ðồ ăn uống phải tinh khiết,

_Nhớ nghĩ về bố thí;

_Cung cấp nuôi dưỡng chồng.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Tây, được pháp của các Thánh xưa chế định điều thích đáng của vợ chồng, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi ích, mà pháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương Bắc như bạn đối với bằng hữu. Do đó bạn phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với bằng hữu. Những gì là năm?

_Chánh tâm cung kính,

_Không giận ý bạn,

_Tình cảm trung thực,

_Luôn luôn phân phát đồ ngon ngọt,

_Ơn dày không quên.

Bạn hữu lại phải lấy năm việc để đối lại bạn của mình. Những gì là năm?

_Có điều sợ sệt thì bảo về nương tựa với mình.

_Có ngạo mạn thì quở trách.

_Có việc riêng thì che giấu.

_Cung cấp nuôi dưỡng thêm lợi ích.

_Nói trung thực nhẫn nhịn.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Bắc được pháp của các Thánh xưa chế định trong việc giao tế của bằng hữu, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương dưới là người chủ đối với người giúp việc. Do đó người chủ phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với người giúp việc. Những gì là năm?

_Tùy sức mà sai bảo.

_Ðúng thời cho cơm áo.

_Luôn luôn phân chia vị ngon ngọt.

_Luôn luôn khuyên bảo đồng đều.

_Có bệnh tật thì cho nghỉ ngơi.

Người giúp làm việc lại phải lấy mười việc để đối với chủ. Những gì là mười?

1. Làm việc giỏi

2. Làm việc hoàn tất

3. Khi được giao phó phải suy xét cẩn thận

4. Phải thức khuya dậy sớm để làm việc

5. Làm việc phải học hỏi

6. Khi làm việc phải gắng sức

7. Nhà chủ nghèo không được khinh mạn

8. Chủ gặp cảnh thiếu nghèo cũng không được bỏ.

9. Khi ra khỏi nhà phải nói: “Người chủ nhà tôi thông minh trí tuệ”.

10. ??????

Ðó là hai phần ưa thích của phương dưới được pháp của các Thánh xưa chế định, người chủ nên chấp hành, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương trên như người ở nơi gia đình bố thí cho Sa môn, Phạm chí. Do đó cư sĩ có năm điều cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với Sa môn Phạm chí. Những gì là năm?

_Mở cửa chờ đợi.

_Ði ra nghênh tiếp,

_Hỏi han và sắp đặt bàn ghế chỗ ngồi,

_Bảo hộ cất giữ kinh pháp,

_Bố thí đồ ăn trong sạch thanh tịnh; lấy đó để cúng dường Sa môn Phạm chí.

Sa môn Phạm chí lại lấy năm điều để đối lại nhà bố thí. Những gì là năm?

_Dạy dỗ khuyên răn để trở thành người chánh tín,

_Dạy khuyên để thành người giới hạnh,

_Dạy khuyên để thành người hiểu biết rộng,

_Dạy khuyên để thành người bố thí,

_Dạy khuyên để thành người trí tuệ.

Ðó là hai phần ưa thích của phương trên được pháp của các Thánh xưa chế định cư giaPhạm chí Sa môn nên thực hành, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Phương Ðông là cha mẹ

Thầy dạy ở phương Nam

Phương Tây là vợ con

Bằng hữu ở phương Bắc.

Nô tỳ ở phương dưới

Sa môn Phạm chí trên

Như vậy nên đảnh lễ

Cư gia phải nên làm.

Người giàu có tiền của

Hãy nghĩ vì lợi người

Cùng người đồng tài lợi

Kẻ bố thí sanh thiên.

Ðược lợi người cùng hưởng

Nơi nơi được an vui

Nghĩa gồm thâu thế gian

Là gần gốc an lạc.

Phàm ban ơn cho người

Như mẹ cho con mình

Ðiều thiện giúp thiên hạ

Phước ấy thật hằng sa.

Trên được nơi chúng hội

Ðạt lợi ích an vui

Người thành tựu tín, giới

Liền có được danh thơm.

Ý thường không biếng nhác

Xả bỏ hạnh keo kiệt

Thu nhiếp người tình bạn

Phải bố thí ăn uống.

Sự đời cứ qua mãi

Như vậy tiếng vang lừng

Ai tu thân cẩn thận

Kẻ ấy gọi là Hiền.

Nhà chứa hàng hóa báu

Cần phải làm nhân nghĩa

Trước phải lo học hành

Sau đó lo làm ăn.

Nếu kiếm được của cải

Hãy chia làm bốn phần

Một phần dùng y, thực

Hai là để được lợi.

Một phần chằm dự trữ

Ðể phòng lúc khốn nguy

Làm ruộng buôn nuôi trâu

Nuôi dê nữa là bốn

Thứ năm sửa nhà cửa

Sáu là lo cưới hỏi.

Chứa hàng hóa như vậy

Ngày ngày ích lợi tăng

Tiền tài ngày đêm tụ

Như nước chảy về biển

Của cảidần dần

Như ong lấy mật hoa.

Giàu tiền nghèo bố thí

Xa gần đều không cho

Tham keo và nghiệp ác

Có của không cho bạn

Trong việc này phải học

Không cho, chớ ngăn người.

Xem kẻ dùng việc này

Bạn tốt như lửa hừng

Ở trong thân tộc này

Cả hai đều tốt đẹp

Cùng thân chúng an hưởng

Như thiên cung Ðế thích.

Bấy giờ, Thiện Sanh tử nghe Chúng Hựu nói xong liền cúi đầu lạy dưới chân Phật, đứng dậy nhiễu ba vòng, vui mừng tự mình xin quy y, theo Phật thọ giới. 

PHẬT THUYẾT THIỆN SANH TỬ KINH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16381)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23583)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17475)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81303)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19584)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20235)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47435)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39172)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15824)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23204)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19275)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15179)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16816)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13048)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13140)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48983)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23312)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19402)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17167)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32098)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27458)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14318)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14774)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18610)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16417)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13903)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17278)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19371)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28044)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14383)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16934)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22181)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23322)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28017)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64812)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33204)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40182)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25132)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50233)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38526)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27318)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28569)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52227)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35879)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32911)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50830)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74903)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36137)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48988)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31018)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33939)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28907)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58827)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46267)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43835)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43222)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45927)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48033)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63743)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49736)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant