Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thiện Sinh Tử

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14242)
Kinh Thiện Sinh Tử


KINH THIỆN SANH TỬ


Đại Chánh Tân Tu số 0017 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Sa môn Chi Pháp Ðộ (đời Tây Tấn)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

Nghe như vầy:

Một thời Chúng Hựu (Thế Tôn) du hóa tại núi Kỳ xà quật, thuộc thành La duyệt kỳ (Vương xá). Bấy giờ cư sĩ Thiện Sanh, bệnh tật nguy cấp, bảo con:

–Sau khi cha mất, con phải hướng sáu phương mà lễ bái.

Cư sĩ Thiện Sanh ngay ngày hôm sau thì qua đời. Người con bèn cung kính lo việc chôn cất, cúng dường tang sự xong, liền dậy sớm, tắm rửa, mặc áo mới, đứng trên bờ sông lễ bái sáu phương, nói:

–“Tôi cung kính những chúng sanh ở phương Ðông, những chúng sanh ấy cũng lễ bái cung kính tôi”. Giáp vòng các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên và Dưới, phương nào cũng nói như vậy.

Bấy giờ vào buổi sáng sớm, đức Phật đắp y, ôm bát vừa muốn vào thành thì thấy con của cư sĩ Thiện Sanh đứng trên bờ sông lễ bái sáu phương, nói như vậy... Chúng Hựu liền đến và hỏi:

–Này con ông cư sĩ, ngươi nghe ai nói mà lại dậy sớm, tắm rửa, mặc áo mới, đứng trên bờ bái yết sáu phương, tự nói lên lời cung kính lễ bái? Lạy các phương xong lại tắm, ngươi cung kính vị pháp sư nào vậy, này Thiện Sanh tử?

Thiện Sanh tử thưa:

–Cha con khi sắp mất, trước có dạy như vậy, cho nên con làm theo, chứ không nghe theo thầy nào cả.

Chúng Hựu bảo:

–Này con ông cư sĩ! Lời nói của cha ngươi không phải là sáu phương này. Vả lại sớm vướng tình dục nơi sáu phương, như có hành vi xấu ác, cấu uế của bốn mặt không thể sám hối. Như vậy thì thân này chết tinh thần sẽ sanh vào trong cõi ác như địa ngục. Phàm con người vì bốn việc này mà bị lao khổ, cần phải biết rõ.

Những gì là bốn?

_Một là ham thích sát sanh;

_Hai là ham thích trộm cắp;

_Ba là tà hạnh dâm dục;

_Bốn là thích nói dối.

Phật nói kệ tụng về ý nghĩa này:

Sát sanh cùng trộm cắp,

Lừa dối và nói láo,

Chạy theo vợ người khác

Kẻ trí không khen ngợi.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn việc đưa đến nẻo ác. Những gì là bốn?

_Một là tham dục;

_Hai là giận dữ;

_Ba là si mê;

_Bốn là sợ hãi.

Bài kệ tụng về ý nghĩa này:

 Có dục, sân, si, sợ 

 Không lãnh thọ chánh pháp,

 Do đó tiếng xấu xa, 

 Như trăng khuyết không tròn,

 Không dục, sân, si, sợ, 

 Lại thừa lãnh chánh pháp,

 Do đó danh tiếng thơm, 

 Như vầng trăng tròn đầy.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có sáu tai hoạ làm tiêu tán tiền tài, đi vào đường ác cần phải biết. Những gì là sáu?

_Một là thích rượu, phóng dật;

_Hai là vào phòng người khác không đúng lúc;

_Ba là đam mê cờ bạc;

_Bốn là đam mê kỹ nhạc;

_Năm là có bạn ác;

_Sáu là trễ nải lười biếng.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Uống rượu vào phòng khác,

 Thích bài bạc, ca xướng,

 Bạn ác cùng lười biếng

 Bậc Thánh không khen ngợi.

Phàm rượu có sáu việc nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Làm tiêu hao tiền bạc. 

_Ðưa đến bệnh hoạn.

_Khởi tranh chấp

_Sân hận nhiều.

_Mất tiếng tốt.

_Hao tổn trí não.

Ðã có những xấu ác này sẽ khiến phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến rồi thì tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Dâm tà có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Không tự bảo vệ được thân mình.

_Không bảo vệ được vợ con.

_Không bảo vệ được gia đình quyến thuộc.

_Do nghi ngờ sanh ra xấu ác.

_Oan gia có được cơ hội.

_Các khổ vây quanh.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ khiến phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Vui chơi cờ bạc có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Thắng thì sanh oán.

_Thua thì nổi nóng.

_Bạn bè thì lo lắng.

_Oan gia thì vui mừng.

_Vào tù ngục ưu phiền.

_Mọi người đều nghi ngờ.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Ham mê ca nhạc có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Tâm trí thích múa,

_Tâm trí thích ca,

_Tâm trí thích đàn,

_Tâm trí thích âm điệu,

_Tâm trí thích trống,

_Tâm trí thích những việc như vậy.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Bạn ác có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Tập chuyện say sưa mê muội;

_Tập khiến hôn loạn,

_Tập theo nẻo buông lung,

_Tập theo đến quán rượu,

_Làm quen với kẻ tiểu nhơn,

_Tập quen với lời nói thô bỉ.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Biếng nhác có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Ăn no không chịu làm việc,

_Ăn đói không chịu làm việc,

_Lạnh không chịu làm việc,

_Nóng không chịu làm việc,

_Sáng không chịu làm việc,

_Tối không chịu làm việc.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch. Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Ưa sắc, nhạc, ca múa

Ngày ngủ đêm đi chơi

Bạn ác cùng làm ác

Kẻ ấy tổn hại lớn.

Cờ bạc rượu rối loạn

Theo đuổi vơ của người

Xa hiền gần kẻ ngu

Tổn hại như trăng khuyết

Thân tự kiêu tự đại

Hủy diệt đạo Sa môn

Tà kiếnkeo kiệt

Ðó là kẻ tà mạn.

Phàm rượu hao tiền của

Ít lợi uống thêm khát

Bệnh rượu thêm nợ nần

Thân nguy loạn mau chóng.

Hoặc vì rượu kết bạn

Hoặc vì rượu phạm pháp

Muốn được lợi, tốt đẹp

Với rượu phải lo chừa.

Hoặc ngày như giữ giới

Tối lại trộm tà hạnh

Cũng tại vì lò rượu

Như vậy chớ có thân.

Chẳng theo đúng nóng lạnh

Như cỏ chẳng quý mình

Tinh tấn tu sự nghiệp

Như thế lợi mà hại.

Nếu chịu được nóng lạnh

Như cỏ chẳng quý mình

Tinh tấn tu sự nghiệp

Ðã an lại có ích.

Ði xuống của dần tiêu

Ði lên chưa từng tổn

Dốc theo bậc tôn quý

Vì thiện nên được thiện.

Lành lớn được tạo nên

Thành thật tập hạnh lành

Thân thích đều mến ưa

Thờ giới diệt điều ác.

Cho nên cần phải tập

Ðã làm rồi lại làm

Cùng thân thích đi lên

Như ngôi vua cao cả.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn loại giống như bạn nhưng không phải là bạn cần phải biết. Những gì là bốn?

_Hãy chọn lấy vật lạ;

_Nói lời nịnh hót;

_Vì muốn làm đẹp mặt mình;

_Vì mình chỉ bày những lời sai quấy.

 Bài tụng về ý nghĩa này:

 Bạn nhằm lấy vật lạ

 Nói đẹp để êm tai

 Gặp nhau toàn nịnh hót

 Lời tà càng hiểm nguy.

 Ðó chẳng phải là bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải xa lìa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn hay chọn lấy vật lạ cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Tham chọn lấy vật ấy

_Cho ít mà mong cầu nhiều.

_Vì sợ sệt nên theo mình.

_Vì điều lợi nên theo mình

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Phàm giữ lấy vật lạ

Cho ít mà mong nhiều

Do sợ, lợi nên theo

Kẻ tham lam đúng nhĩa.

Ðấy chẳng phải là bạn 

Người trí không hết thân

Ðã biết nên xa lìa

Như ra khỏi đường xấu.

Bạn nói lời nịnh hót, cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Nói đời tư kẻ khác

_Giấu đời tư của mình;

_Ngoài mặt giả khen tốt;

_Quay lưng thì bài xích.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Thích nói đời tư người

 Ðời tư mình thì giấu

 Ngoài mặt giả khen tốt

 Sau lưng lại nói xấu.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn vì muốn làm đẹp mặt mình cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Nói việc dở đã qua của người khác;

_AÂm thầm tìm lỗi ở tương lai;

_Cho mà không thật lòng;

_Mong cho người gặp nguy hiểm.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Làm điều không thể làm

 Bất lợi nên nói nịnh

 Cho nhưng không thật lòng

 Mong người nguy nhờ mình.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn tà giáo cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Khuyên người sát sanh;

_Khuyên người trộm cắp;

_Khuyên người tà dâm;

_Khuyên người dối láo.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Sát sanh cùng trộm cắp

 Dối trá và nói láo

 Theo đuổi vợ của người

 Khuyên người làm như vậy.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn loại bạn vì lòng nhân từ sáng suốt, muốn lợi người cần phải biết. Những gì là bốn?

_Một là cùng khổ cùng vui;

_Hai là cả hai cùng lợi;

_Ba là vì hưng thạnh bổn nghiệp;

_Bốn là vì lòng nhơn từ thương xót.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 An nguy cùng có nhau

 Nhằm mục đích thiện lợi

 Dốc vì sự nghiệp bạn

 Thương xót dẫn đường chánh.

 Những người bạn như vậy

 Kẻ trí tập học hỏi

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn cùng khổ cùng vui, nên lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Cho những vật báu của mình;

_Cho tài lợi đối với vợ con;

_Cho những vật nhà mình;

_Nói trung thực nhẫn nhịn.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Cho tài lợi của mình

 Có tài lợi cũng cho

 Cho tài lợi nhà mình

 Nói trung thực nhẫn nhịn.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn có lợi cùng hưởng cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Không nói đời riêng kẻ khác;

_Không giấu đời tư của mình

_Gặp nhau nói điều thiện

_Bài xích lối nói hai chiều.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Không nói đời tư người

 Không giấu đời tư mình

 Gặp nhau nói điều thiện

 Bài xích nói hai chiều.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn cho bổn nghiệp cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Vì lợi mà hành động;

_Vì sức lực mà hành động

_Buông lung thì can ngăn

_Lấy điều thiện để nuôi dưỡng.

Bài tụng về ý nghĩa này: 

 Hành động vì tài lợi

 Dùng sức giúp an ổn

 Cắt đứt sự buông lung

 Nuôi dưỡng thiện chí bạn.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn nhơn từ thương xót cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu đức tin;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu giới;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu văn;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu thí.

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

 Ðạo tín, giới, văn, thí

 Hằng đem khuyến hóa người.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Phàm ở phương Ðông như con thờ cha mẹ. Do đó con phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với cha mẹ. Những gì là năm?

_Nhớ nghĩ báo đáp việc nhà;

_Phải lo thay thế gánh vác

_Phải biết an ủi can ngăn

_Chỉ mong được cung cấp, nuôi dưỡøng cha mẹ

_Chỉ vui khi thấy cha mẹ.

Cha mẹ lại lấy năm việc để yêu thương con cái. Những gì là năm?

_Hãy tạo cơ nghiệp;

_Cùng lo tài lợi;

_Lo dựng vợ gả chồng;

_Dạy học theo kinh sách đạo lý;

_Ðem của cải phó thác cho con.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Ðông, được pháp của các bậc Thánh xưa chế ra, làm con phải hiếu thảo, làm cha mẹ phải từ ái thương yêu, kẻ sĩ trượng phu mong lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương Nam như đệ tử thờ Thầy, do đó đệ tử phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với Thầy. Những gì là năm?

_Phải hết lòng lắng nghe lời chỉ dạy

_Hãy yêu sự học,

_Phải siêng năng hầu hạ,

_Ðừng hành động sai trái,

_Hãy cúng dường Thầy.

Thầy lại lấy năm việc để thương yêu giáo dục đệ tử. Những gì là năm?

_Dạy đệ tử học những điều mình đã học,

_Lấy nghề hay truyền cho đệ tử,

_Khiến đệ tử siêng năng học hành,

_Dẫn dắt đệ tử đi con đường lành;

_Chỉ vẽ cho đệ tử biết những bạn hiền quen thuộc.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Nam, được pháp của các Thánh xưa chế định, làm đệ tử phải khiêm cung, làm Thầy phải lấy lòng nhơn từ để dạy dỗ. Kẻ sĩ trượng phu mong được lợi ích mà pháp lành không suy thối.

Phàm ở phương Tây như chồng đối với vợ. Do đó chồng phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với vợ. Những gì là năm?

_Hết lòng kính mến,

_Không giận dữ về ý của vợ;

_Không có ngoại tình với kẻ khác;

_Ðúng lúc cấp y phục, thức ăn;

_Ðúng thời cho những đồ trang sức báu.

Vợ lại có mười bốn điều để thờ chồng. Những gì là mười bốn?

_Khéo làm việc.

_Khéo tác thành mọi sự việc,

_Gìn giữ tài sản chồng giao phó,

_Gà gáy phải lo dậy,

_Tối thì đi ngủ,

_Làm việc phải học hỏi,

_Phải đóng cửa hầu chồng,

_Phải hầu thăm sức khỏe khi chồng đi xa về.

_Nói lời hòa nhã,

_Ngôn ngữ êm tai,

_Giường ghế phải ngay thẳng,

_Ðồ ăn uống phải tinh khiết,

_Nhớ nghĩ về bố thí;

_Cung cấp nuôi dưỡng chồng.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Tây, được pháp của các Thánh xưa chế định điều thích đáng của vợ chồng, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi ích, mà pháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương Bắc như bạn đối với bằng hữu. Do đó bạn phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với bằng hữu. Những gì là năm?

_Chánh tâm cung kính,

_Không giận ý bạn,

_Tình cảm trung thực,

_Luôn luôn phân phát đồ ngon ngọt,

_Ơn dày không quên.

Bạn hữu lại phải lấy năm việc để đối lại bạn của mình. Những gì là năm?

_Có điều sợ sệt thì bảo về nương tựa với mình.

_Có ngạo mạn thì quở trách.

_Có việc riêng thì che giấu.

_Cung cấp nuôi dưỡng thêm lợi ích.

_Nói trung thực nhẫn nhịn.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Bắc được pháp của các Thánh xưa chế định trong việc giao tế của bằng hữu, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương dưới là người chủ đối với người giúp việc. Do đó người chủ phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với người giúp việc. Những gì là năm?

_Tùy sức mà sai bảo.

_Ðúng thời cho cơm áo.

_Luôn luôn phân chia vị ngon ngọt.

_Luôn luôn khuyên bảo đồng đều.

_Có bệnh tật thì cho nghỉ ngơi.

Người giúp làm việc lại phải lấy mười việc để đối với chủ. Những gì là mười?

1. Làm việc giỏi

2. Làm việc hoàn tất

3. Khi được giao phó phải suy xét cẩn thận

4. Phải thức khuya dậy sớm để làm việc

5. Làm việc phải học hỏi

6. Khi làm việc phải gắng sức

7. Nhà chủ nghèo không được khinh mạn

8. Chủ gặp cảnh thiếu nghèo cũng không được bỏ.

9. Khi ra khỏi nhà phải nói: “Người chủ nhà tôi thông minh trí tuệ”.

10. ??????

Ðó là hai phần ưa thích của phương dưới được pháp của các Thánh xưa chế định, người chủ nên chấp hành, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương trên như người ở nơi gia đình bố thí cho Sa môn, Phạm chí. Do đó cư sĩ có năm điều cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với Sa môn Phạm chí. Những gì là năm?

_Mở cửa chờ đợi.

_Ði ra nghênh tiếp,

_Hỏi han và sắp đặt bàn ghế chỗ ngồi,

_Bảo hộ cất giữ kinh pháp,

_Bố thí đồ ăn trong sạch thanh tịnh; lấy đó để cúng dường Sa môn Phạm chí.

Sa môn Phạm chí lại lấy năm điều để đối lại nhà bố thí. Những gì là năm?

_Dạy dỗ khuyên răn để trở thành người chánh tín,

_Dạy khuyên để thành người giới hạnh,

_Dạy khuyên để thành người hiểu biết rộng,

_Dạy khuyên để thành người bố thí,

_Dạy khuyên để thành người trí tuệ.

Ðó là hai phần ưa thích của phương trên được pháp của các Thánh xưa chế định cư giaPhạm chí Sa môn nên thực hành, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Phương Ðông là cha mẹ

Thầy dạy ở phương Nam

Phương Tây là vợ con

Bằng hữu ở phương Bắc.

Nô tỳ ở phương dưới

Sa môn Phạm chí trên

Như vậy nên đảnh lễ

Cư gia phải nên làm.

Người giàu có tiền của

Hãy nghĩ vì lợi người

Cùng người đồng tài lợi

Kẻ bố thí sanh thiên.

Ðược lợi người cùng hưởng

Nơi nơi được an vui

Nghĩa gồm thâu thế gian

Là gần gốc an lạc.

Phàm ban ơn cho người

Như mẹ cho con mình

Ðiều thiện giúp thiên hạ

Phước ấy thật hằng sa.

Trên được nơi chúng hội

Ðạt lợi ích an vui

Người thành tựu tín, giới

Liền có được danh thơm.

Ý thường không biếng nhác

Xả bỏ hạnh keo kiệt

Thu nhiếp người tình bạn

Phải bố thí ăn uống.

Sự đời cứ qua mãi

Như vậy tiếng vang lừng

Ai tu thân cẩn thận

Kẻ ấy gọi là Hiền.

Nhà chứa hàng hóa báu

Cần phải làm nhân nghĩa

Trước phải lo học hành

Sau đó lo làm ăn.

Nếu kiếm được của cải

Hãy chia làm bốn phần

Một phần dùng y, thực

Hai là để được lợi.

Một phần chằm dự trữ

Ðể phòng lúc khốn nguy

Làm ruộng buôn nuôi trâu

Nuôi dê nữa là bốn

Thứ năm sửa nhà cửa

Sáu là lo cưới hỏi.

Chứa hàng hóa như vậy

Ngày ngày ích lợi tăng

Tiền tài ngày đêm tụ

Như nước chảy về biển

Của cảidần dần

Như ong lấy mật hoa.

Giàu tiền nghèo bố thí

Xa gần đều không cho

Tham keo và nghiệp ác

Có của không cho bạn

Trong việc này phải học

Không cho, chớ ngăn người.

Xem kẻ dùng việc này

Bạn tốt như lửa hừng

Ở trong thân tộc này

Cả hai đều tốt đẹp

Cùng thân chúng an hưởng

Như thiên cung Ðế thích.

Bấy giờ, Thiện Sanh tử nghe Chúng Hựu nói xong liền cúi đầu lạy dưới chân Phật, đứng dậy nhiễu ba vòng, vui mừng tự mình xin quy y, theo Phật thọ giới. 

PHẬT THUYẾT THIỆN SANH TỬ KINH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23954)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41211)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19689)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23976)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23292)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27498)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26558)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29311)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20180)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25761)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20905)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38557)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21425)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44242)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29815)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42189)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22131)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45737)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24378)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29246)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33910)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27678)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32121)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28842)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21564)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22059)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19490)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19459)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19832)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19236)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29171)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20609)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28275)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23647)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31833)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21365)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39612)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21543)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19368)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24812)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21751)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22374)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29126)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22552)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20468)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23510)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21230)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24541)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31333)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant