Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thiện Sinh Tử

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14248)
Kinh Thiện Sinh Tử


KINH THIỆN SANH TỬ


Đại Chánh Tân Tu số 0017 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Sa môn Chi Pháp Ðộ (đời Tây Tấn)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

Nghe như vầy:

Một thời Chúng Hựu (Thế Tôn) du hóa tại núi Kỳ xà quật, thuộc thành La duyệt kỳ (Vương xá). Bấy giờ cư sĩ Thiện Sanh, bệnh tật nguy cấp, bảo con:

–Sau khi cha mất, con phải hướng sáu phương mà lễ bái.

Cư sĩ Thiện Sanh ngay ngày hôm sau thì qua đời. Người con bèn cung kính lo việc chôn cất, cúng dường tang sự xong, liền dậy sớm, tắm rửa, mặc áo mới, đứng trên bờ sông lễ bái sáu phương, nói:

–“Tôi cung kính những chúng sanh ở phương Ðông, những chúng sanh ấy cũng lễ bái cung kính tôi”. Giáp vòng các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên và Dưới, phương nào cũng nói như vậy.

Bấy giờ vào buổi sáng sớm, đức Phật đắp y, ôm bát vừa muốn vào thành thì thấy con của cư sĩ Thiện Sanh đứng trên bờ sông lễ bái sáu phương, nói như vậy... Chúng Hựu liền đến và hỏi:

–Này con ông cư sĩ, ngươi nghe ai nói mà lại dậy sớm, tắm rửa, mặc áo mới, đứng trên bờ bái yết sáu phương, tự nói lên lời cung kính lễ bái? Lạy các phương xong lại tắm, ngươi cung kính vị pháp sư nào vậy, này Thiện Sanh tử?

Thiện Sanh tử thưa:

–Cha con khi sắp mất, trước có dạy như vậy, cho nên con làm theo, chứ không nghe theo thầy nào cả.

Chúng Hựu bảo:

–Này con ông cư sĩ! Lời nói của cha ngươi không phải là sáu phương này. Vả lại sớm vướng tình dục nơi sáu phương, như có hành vi xấu ác, cấu uế của bốn mặt không thể sám hối. Như vậy thì thân này chết tinh thần sẽ sanh vào trong cõi ác như địa ngục. Phàm con người vì bốn việc này mà bị lao khổ, cần phải biết rõ.

Những gì là bốn?

_Một là ham thích sát sanh;

_Hai là ham thích trộm cắp;

_Ba là tà hạnh dâm dục;

_Bốn là thích nói dối.

Phật nói kệ tụng về ý nghĩa này:

Sát sanh cùng trộm cắp,

Lừa dối và nói láo,

Chạy theo vợ người khác

Kẻ trí không khen ngợi.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn việc đưa đến nẻo ác. Những gì là bốn?

_Một là tham dục;

_Hai là giận dữ;

_Ba là si mê;

_Bốn là sợ hãi.

Bài kệ tụng về ý nghĩa này:

 Có dục, sân, si, sợ 

 Không lãnh thọ chánh pháp,

 Do đó tiếng xấu xa, 

 Như trăng khuyết không tròn,

 Không dục, sân, si, sợ, 

 Lại thừa lãnh chánh pháp,

 Do đó danh tiếng thơm, 

 Như vầng trăng tròn đầy.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có sáu tai hoạ làm tiêu tán tiền tài, đi vào đường ác cần phải biết. Những gì là sáu?

_Một là thích rượu, phóng dật;

_Hai là vào phòng người khác không đúng lúc;

_Ba là đam mê cờ bạc;

_Bốn là đam mê kỹ nhạc;

_Năm là có bạn ác;

_Sáu là trễ nải lười biếng.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Uống rượu vào phòng khác,

 Thích bài bạc, ca xướng,

 Bạn ác cùng lười biếng

 Bậc Thánh không khen ngợi.

Phàm rượu có sáu việc nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Làm tiêu hao tiền bạc. 

_Ðưa đến bệnh hoạn.

_Khởi tranh chấp

_Sân hận nhiều.

_Mất tiếng tốt.

_Hao tổn trí não.

Ðã có những xấu ác này sẽ khiến phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến rồi thì tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Dâm tà có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Không tự bảo vệ được thân mình.

_Không bảo vệ được vợ con.

_Không bảo vệ được gia đình quyến thuộc.

_Do nghi ngờ sanh ra xấu ác.

_Oan gia có được cơ hội.

_Các khổ vây quanh.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ khiến phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Vui chơi cờ bạc có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Thắng thì sanh oán.

_Thua thì nổi nóng.

_Bạn bè thì lo lắng.

_Oan gia thì vui mừng.

_Vào tù ngục ưu phiền.

_Mọi người đều nghi ngờ.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Ham mê ca nhạc có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Tâm trí thích múa,

_Tâm trí thích ca,

_Tâm trí thích đàn,

_Tâm trí thích âm điệu,

_Tâm trí thích trống,

_Tâm trí thích những việc như vậy.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Bạn ác có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Tập chuyện say sưa mê muội;

_Tập khiến hôn loạn,

_Tập theo nẻo buông lung,

_Tập theo đến quán rượu,

_Làm quen với kẻ tiểu nhơn,

_Tập quen với lời nói thô bỉ.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch.

Biếng nhác có sáu nguy biến cần phải biết. Những gì là sáu?

_Ăn no không chịu làm việc,

_Ăn đói không chịu làm việc,

_Lạnh không chịu làm việc,

_Nóng không chịu làm việc,

_Sáng không chịu làm việc,

_Tối không chịu làm việc.

Ðã có điều xấu ác này rồi sẽ phế bỏ sự nghiệp, tiền tài chưa đến sẽ không đến, đã đến sẽ tiêu hết, vốn liếng có từ trước cũng hao sạch. Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Ưa sắc, nhạc, ca múa

Ngày ngủ đêm đi chơi

Bạn ác cùng làm ác

Kẻ ấy tổn hại lớn.

Cờ bạc rượu rối loạn

Theo đuổi vơ của người

Xa hiền gần kẻ ngu

Tổn hại như trăng khuyết

Thân tự kiêu tự đại

Hủy diệt đạo Sa môn

Tà kiếnkeo kiệt

Ðó là kẻ tà mạn.

Phàm rượu hao tiền của

Ít lợi uống thêm khát

Bệnh rượu thêm nợ nần

Thân nguy loạn mau chóng.

Hoặc vì rượu kết bạn

Hoặc vì rượu phạm pháp

Muốn được lợi, tốt đẹp

Với rượu phải lo chừa.

Hoặc ngày như giữ giới

Tối lại trộm tà hạnh

Cũng tại vì lò rượu

Như vậy chớ có thân.

Chẳng theo đúng nóng lạnh

Như cỏ chẳng quý mình

Tinh tấn tu sự nghiệp

Như thế lợi mà hại.

Nếu chịu được nóng lạnh

Như cỏ chẳng quý mình

Tinh tấn tu sự nghiệp

Ðã an lại có ích.

Ði xuống của dần tiêu

Ði lên chưa từng tổn

Dốc theo bậc tôn quý

Vì thiện nên được thiện.

Lành lớn được tạo nên

Thành thật tập hạnh lành

Thân thích đều mến ưa

Thờ giới diệt điều ác.

Cho nên cần phải tập

Ðã làm rồi lại làm

Cùng thân thích đi lên

Như ngôi vua cao cả.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn loại giống như bạn nhưng không phải là bạn cần phải biết. Những gì là bốn?

_Hãy chọn lấy vật lạ;

_Nói lời nịnh hót;

_Vì muốn làm đẹp mặt mình;

_Vì mình chỉ bày những lời sai quấy.

 Bài tụng về ý nghĩa này:

 Bạn nhằm lấy vật lạ

 Nói đẹp để êm tai

 Gặp nhau toàn nịnh hót

 Lời tà càng hiểm nguy.

 Ðó chẳng phải là bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải xa lìa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn hay chọn lấy vật lạ cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Tham chọn lấy vật ấy

_Cho ít mà mong cầu nhiều.

_Vì sợ sệt nên theo mình.

_Vì điều lợi nên theo mình

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Phàm giữ lấy vật lạ

Cho ít mà mong nhiều

Do sợ, lợi nên theo

Kẻ tham lam đúng nhĩa.

Ðấy chẳng phải là bạn 

Người trí không hết thân

Ðã biết nên xa lìa

Như ra khỏi đường xấu.

Bạn nói lời nịnh hót, cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Nói đời tư kẻ khác

_Giấu đời tư của mình;

_Ngoài mặt giả khen tốt;

_Quay lưng thì bài xích.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Thích nói đời tư người

 Ðời tư mình thì giấu

 Ngoài mặt giả khen tốt

 Sau lưng lại nói xấu.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn vì muốn làm đẹp mặt mình cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Nói việc dở đã qua của người khác;

_AÂm thầm tìm lỗi ở tương lai;

_Cho mà không thật lòng;

_Mong cho người gặp nguy hiểm.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Làm điều không thể làm

 Bất lợi nên nói nịnh

 Cho nhưng không thật lòng

 Mong người nguy nhờ mình.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Bạn tà giáo cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Khuyên người sát sanh;

_Khuyên người trộm cắp;

_Khuyên người tà dâm;

_Khuyên người dối láo.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Sát sanh cùng trộm cắp

 Dối trá và nói láo

 Theo đuổi vợ của người

 Khuyên người làm như vậy.

 Kẻ đó không phải bạn

 Người trí không kết thân

 Ðã biết phải tránh xa

 Như ra khỏi đường xấu.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Có bốn loại bạn vì lòng nhân từ sáng suốt, muốn lợi người cần phải biết. Những gì là bốn?

_Một là cùng khổ cùng vui;

_Hai là cả hai cùng lợi;

_Ba là vì hưng thạnh bổn nghiệp;

_Bốn là vì lòng nhơn từ thương xót.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 An nguy cùng có nhau

 Nhằm mục đích thiện lợi

 Dốc vì sự nghiệp bạn

 Thương xót dẫn đường chánh.

 Những người bạn như vậy

 Kẻ trí tập học hỏi

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn cùng khổ cùng vui, nên lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Cho những vật báu của mình;

_Cho tài lợi đối với vợ con;

_Cho những vật nhà mình;

_Nói trung thực nhẫn nhịn.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Cho tài lợi của mình

 Có tài lợi cũng cho

 Cho tài lợi nhà mình

 Nói trung thực nhẫn nhịn.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn có lợi cùng hưởng cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Không nói đời riêng kẻ khác;

_Không giấu đời tư của mình

_Gặp nhau nói điều thiện

_Bài xích lối nói hai chiều.

Bài tụng về ý nghĩa này:

 Không nói đời tư người

 Không giấu đời tư mình

 Gặp nhau nói điều thiện

 Bài xích nói hai chiều.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn cho bổn nghiệp cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Vì lợi mà hành động;

_Vì sức lực mà hành động

_Buông lung thì can ngăn

_Lấy điều thiện để nuôi dưỡng.

Bài tụng về ý nghĩa này: 

 Hành động vì tài lợi

 Dùng sức giúp an ổn

 Cắt đứt sự buông lung

 Nuôi dưỡng thiện chí bạn.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Bạn nhơn từ thương xót cần lấy bốn việc để biết. Những gì là bốn?

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu đức tin;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu giới;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu văn;

_Dạy khuyên đứng vững để thành tựu thí.

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

 Ðạo tín, giới, văn, thí

 Hằng đem khuyến hóa người.

 Những loại bạn như vậy

 Kẻ trí tập thân cận

 Hãy nên theo kẻ ấy

 Lợi ích, không xấu ác.

Lại nữa, này con ông cư sĩ! Phàm ở phương Ðông như con thờ cha mẹ. Do đó con phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với cha mẹ. Những gì là năm?

_Nhớ nghĩ báo đáp việc nhà;

_Phải lo thay thế gánh vác

_Phải biết an ủi can ngăn

_Chỉ mong được cung cấp, nuôi dưỡøng cha mẹ

_Chỉ vui khi thấy cha mẹ.

Cha mẹ lại lấy năm việc để yêu thương con cái. Những gì là năm?

_Hãy tạo cơ nghiệp;

_Cùng lo tài lợi;

_Lo dựng vợ gả chồng;

_Dạy học theo kinh sách đạo lý;

_Ðem của cải phó thác cho con.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Ðông, được pháp của các bậc Thánh xưa chế ra, làm con phải hiếu thảo, làm cha mẹ phải từ ái thương yêu, kẻ sĩ trượng phu mong lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương Nam như đệ tử thờ Thầy, do đó đệ tử phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với Thầy. Những gì là năm?

_Phải hết lòng lắng nghe lời chỉ dạy

_Hãy yêu sự học,

_Phải siêng năng hầu hạ,

_Ðừng hành động sai trái,

_Hãy cúng dường Thầy.

Thầy lại lấy năm việc để thương yêu giáo dục đệ tử. Những gì là năm?

_Dạy đệ tử học những điều mình đã học,

_Lấy nghề hay truyền cho đệ tử,

_Khiến đệ tử siêng năng học hành,

_Dẫn dắt đệ tử đi con đường lành;

_Chỉ vẽ cho đệ tử biết những bạn hiền quen thuộc.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Nam, được pháp của các Thánh xưa chế định, làm đệ tử phải khiêm cung, làm Thầy phải lấy lòng nhơn từ để dạy dỗ. Kẻ sĩ trượng phu mong được lợi ích mà pháp lành không suy thối.

Phàm ở phương Tây như chồng đối với vợ. Do đó chồng phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với vợ. Những gì là năm?

_Hết lòng kính mến,

_Không giận dữ về ý của vợ;

_Không có ngoại tình với kẻ khác;

_Ðúng lúc cấp y phục, thức ăn;

_Ðúng thời cho những đồ trang sức báu.

Vợ lại có mười bốn điều để thờ chồng. Những gì là mười bốn?

_Khéo làm việc.

_Khéo tác thành mọi sự việc,

_Gìn giữ tài sản chồng giao phó,

_Gà gáy phải lo dậy,

_Tối thì đi ngủ,

_Làm việc phải học hỏi,

_Phải đóng cửa hầu chồng,

_Phải hầu thăm sức khỏe khi chồng đi xa về.

_Nói lời hòa nhã,

_Ngôn ngữ êm tai,

_Giường ghế phải ngay thẳng,

_Ðồ ăn uống phải tinh khiết,

_Nhớ nghĩ về bố thí;

_Cung cấp nuôi dưỡng chồng.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Tây, được pháp của các Thánh xưa chế định điều thích đáng của vợ chồng, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi ích, mà pháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương Bắc như bạn đối với bằng hữu. Do đó bạn phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với bằng hữu. Những gì là năm?

_Chánh tâm cung kính,

_Không giận ý bạn,

_Tình cảm trung thực,

_Luôn luôn phân phát đồ ngon ngọt,

_Ơn dày không quên.

Bạn hữu lại phải lấy năm việc để đối lại bạn của mình. Những gì là năm?

_Có điều sợ sệt thì bảo về nương tựa với mình.

_Có ngạo mạn thì quở trách.

_Có việc riêng thì che giấu.

_Cung cấp nuôi dưỡng thêm lợi ích.

_Nói trung thực nhẫn nhịn.

Ðó là hai phần ưa thích của phương Bắc được pháp của các Thánh xưa chế định trong việc giao tế của bằng hữu, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương dưới là người chủ đối với người giúp việc. Do đó người chủ phải lấy năm việc để cung kính chơn chánh, nuôi dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với người giúp việc. Những gì là năm?

_Tùy sức mà sai bảo.

_Ðúng thời cho cơm áo.

_Luôn luôn phân chia vị ngon ngọt.

_Luôn luôn khuyên bảo đồng đều.

_Có bệnh tật thì cho nghỉ ngơi.

Người giúp làm việc lại phải lấy mười việc để đối với chủ. Những gì là mười?

1. Làm việc giỏi

2. Làm việc hoàn tất

3. Khi được giao phó phải suy xét cẩn thận

4. Phải thức khuya dậy sớm để làm việc

5. Làm việc phải học hỏi

6. Khi làm việc phải gắng sức

7. Nhà chủ nghèo không được khinh mạn

8. Chủ gặp cảnh thiếu nghèo cũng không được bỏ.

9. Khi ra khỏi nhà phải nói: “Người chủ nhà tôi thông minh trí tuệ”.

10. ??????

Ðó là hai phần ưa thích của phương dưới được pháp của các Thánh xưa chế định, người chủ nên chấp hành, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Phàm ở phương trên như người ở nơi gia đình bố thí cho Sa môn, Phạm chí. Do đó cư sĩ có năm điều cung kính chơn chánh, phụng dưỡng chơn chánh, an ủi chơn chánh đối với Sa môn Phạm chí. Những gì là năm?

_Mở cửa chờ đợi.

_Ði ra nghênh tiếp,

_Hỏi han và sắp đặt bàn ghế chỗ ngồi,

_Bảo hộ cất giữ kinh pháp,

_Bố thí đồ ăn trong sạch thanh tịnh; lấy đó để cúng dường Sa môn Phạm chí.

Sa môn Phạm chí lại lấy năm điều để đối lại nhà bố thí. Những gì là năm?

_Dạy dỗ khuyên răn để trở thành người chánh tín,

_Dạy khuyên để thành người giới hạnh,

_Dạy khuyên để thành người hiểu biết rộng,

_Dạy khuyên để thành người bố thí,

_Dạy khuyên để thành người trí tuệ.

Ðó là hai phần ưa thích của phương trên được pháp của các Thánh xưa chế định cư giaPhạm chí Sa môn nên thực hành, kẻ sĩ trượng phu mong được lợi íchpháp thiện không suy thối.

Bài tụng nói về ý nghĩa này:

Phương Ðông là cha mẹ

Thầy dạy ở phương Nam

Phương Tây là vợ con

Bằng hữu ở phương Bắc.

Nô tỳ ở phương dưới

Sa môn Phạm chí trên

Như vậy nên đảnh lễ

Cư gia phải nên làm.

Người giàu có tiền của

Hãy nghĩ vì lợi người

Cùng người đồng tài lợi

Kẻ bố thí sanh thiên.

Ðược lợi người cùng hưởng

Nơi nơi được an vui

Nghĩa gồm thâu thế gian

Là gần gốc an lạc.

Phàm ban ơn cho người

Như mẹ cho con mình

Ðiều thiện giúp thiên hạ

Phước ấy thật hằng sa.

Trên được nơi chúng hội

Ðạt lợi ích an vui

Người thành tựu tín, giới

Liền có được danh thơm.

Ý thường không biếng nhác

Xả bỏ hạnh keo kiệt

Thu nhiếp người tình bạn

Phải bố thí ăn uống.

Sự đời cứ qua mãi

Như vậy tiếng vang lừng

Ai tu thân cẩn thận

Kẻ ấy gọi là Hiền.

Nhà chứa hàng hóa báu

Cần phải làm nhân nghĩa

Trước phải lo học hành

Sau đó lo làm ăn.

Nếu kiếm được của cải

Hãy chia làm bốn phần

Một phần dùng y, thực

Hai là để được lợi.

Một phần chằm dự trữ

Ðể phòng lúc khốn nguy

Làm ruộng buôn nuôi trâu

Nuôi dê nữa là bốn

Thứ năm sửa nhà cửa

Sáu là lo cưới hỏi.

Chứa hàng hóa như vậy

Ngày ngày ích lợi tăng

Tiền tài ngày đêm tụ

Như nước chảy về biển

Của cảidần dần

Như ong lấy mật hoa.

Giàu tiền nghèo bố thí

Xa gần đều không cho

Tham keo và nghiệp ác

Có của không cho bạn

Trong việc này phải học

Không cho, chớ ngăn người.

Xem kẻ dùng việc này

Bạn tốt như lửa hừng

Ở trong thân tộc này

Cả hai đều tốt đẹp

Cùng thân chúng an hưởng

Như thiên cung Ðế thích.

Bấy giờ, Thiện Sanh tử nghe Chúng Hựu nói xong liền cúi đầu lạy dưới chân Phật, đứng dậy nhiễu ba vòng, vui mừng tự mình xin quy y, theo Phật thọ giới. 

PHẬT THUYẾT THIỆN SANH TỬ KINH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27173)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21765)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20048)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24741)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18984)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30971)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23982)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26508)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21305)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18433)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19952)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19040)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29565)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19655)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20149)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18114)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16416)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26060)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18847)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29118)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30947)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26257)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30029)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19848)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant