Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nước Sông Hằng

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12737)
Kinh Nước Sông Hằng


PHẬT NÓI KINH NƯỚC SÔNG HẰNG


Đại Chánh Tân Tu số 0033 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch:  Ðời Tây Tấn Tam tạng Pháp sư Pháp Cự

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Phật cùng đại Tỳ kheo tăng, các Bồ tát đại đệ tử đồng đi đến sông Hằng, chư thiên, nhân dân, quỷ, thần, rồng, người, không phải người và những vị mới phát đạo ý nhiều vô số, tất cả đều cầm hoa hương, kỹ nhạc đi theo sau Phật. Khi đến sông Hằng, tất cả đều trải tòa ra ngồi; khi chúng hội đã ngồi yên, vào ngày mười lăm trong tháng là ngày thuyết giới, Ngài A Nan từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, đến phía trước để đảnh lễ, đầu chạm sát chân Phật, rồi quỳ xuống chấp tay bạch rằng:

–Các đệ tử đã ngồi ổn định, cúi mong đức Phật có thể thuyết Giới kinh.

Ðức Phật im lặng không đáp, ngài A Nan liền trở về chỗ ngồi, thật lâu mãi đến nửa đêm ngài A Nan lại đứng dậy, đến phía trước, quỳ dài bạch đức Phật:

–Ðã nửa đêm rồi, các đệ tử đều ngồi yên lặng, mong được nghe đức Phật thuyết Giới kinh.

Ðức Phật lại im lặng không trả lời, ngài A Nan lại về chỗ ngồi rất lâu, gà sắp sửa gáy, ngài A Nan lại đến phía trước quỳ xuống, chấp tay bạch đức Phật:

–Gà sắp gáy, các đệ tử mong muốn nghe Phật thuyết Giới kinh.

Ðức Phật bảo ngài A Nan :

–Con người sống chết xoay vần qua lại trong năm đường, ở thế gian hết sức thống khổ, kẻ không tự hay biết đời trước, kiếp trước gốc và ngọn, đều do tâm ý không được ngay thẳng vậy. Thân người rất khó được, đã được thân rồi lại càng khó được nghe kinh Giới của Phật, đã được nghe kinh Giới của Phật rồi mà tin nhập được Phật đạo lại càng khó hơn, đã tin nhập Phật đạo mà giữ được Giới kinh lại càng khó hơn. Ðức Phật muốn nói Giới kinh, nhưng nay có một đệ tử ngồi trong nhóm này không có thể thọ trì Giới kinh của Phật, do đó cho nên đức Phật mới không nói Giới kinh.

Ngài A Nan bạch đức Phật:

–Con không biết vị đệ tử không trì Giới kinh ngồi ở chỗ nào?

Ngài Ðại Mục Kiền Liên ở trong tam muội, suốt xem thấy người đệ tử không trì giới, liền đứng dậy đi đến trước vị ấy nói rằng:

–Ngươi là đệ tử của đức Phật mà không thể thọ trì Giới pháp, đó là ngươi phế thải, không thể cùng ngồi chung chiếu với các tôn giả, hãy đứng dậy, đi ra, không được trở lại trong chúng này nữa.

Ðức Phật bảo ngài Ðại Mục Kiền Liên:

–Ngươi đã khéo giải thích, khiến cho người đệ tử không giữ giới ra khỏi nơi đây, tự biết xấu hổ nên đi ra.

Ðức Phật bảo các đệ tử:

–Lành thay ! Nay ta thuyết pháp.

Các đệ tử đều chấp tay thưa rằng:

–Thưa vâng, chúng con xin thọ giáo.

Ðức Phật dạy:

–Nước thủy triều trong biển lớn lúc dâng lên không vượt qua mức cũ, lúc xuống cũng không vượt qua mức cũ. Các đệ tử đều nên đoan tâm, chánh ý quay trở lại tự xem trong năm tạng của mình, suy nghĩ biết sự sanh tử rất đau khổ, hãy phụng trì Giới kinh, đừng để sứt mẻ. Người trì năm giới được sanh trở lại nhân gian làm người. Người giữ mười giới được sanh lên trời, người giữ 250 giới đời này được quả A la hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát Phật, Nê Hoàn đại đạo. Nhờ đạo mà được thân người, nên phụng trì giới kinh, dầu có chết thì chịu chết chứ đừng có để khuyết phạm dẫu cho lớn như lông tóc.

Thí như nước trong đại hải lúc sáng, lúc tối, khi lên, khi xuống, không dám vượt qua mức cũ. Trong biển có bảy báu. Những gì là bảy?

1. Bạch ngân

2. Hoàng kim

3. San hô

4. Bạch châu

5. Xa cừ

6. Minh nguyệt châu

7. Ma ni châu.

Ðó là bảy báu ở trong biển.

Nay trong đạo Phật cũng có bảy báu. Ðức Phật dạy: bảy báu đó là:

1. Tu đà hoàn

2. Tư đà hàm

3. A na hàm

4. A la hán

5. Bích Chi Phật

6. Phát ý niệm độ tất cả Bồ tát

7. Phật Nê hoàn đại đạo.

Ðó là thất bảo. Muốn được đạo báu cần phải vứt bỏ dâm dật, sân hận, ngu si, phải trì giới tinh tấn chứa nhiều công đức, trong ngoài thanh tịnh, tự giữ thanh cao phi thường. Như vậy, nước trong biển không chứa vật ô uế, nếu có người chết ô uế, hôi thúi, không thanh khiết, gió mạnh sẽ thổi lên bờ. Nay trong đạo Phật không chứa những người ác ô uế, không giữ Giới kinh. Các người đã phạm kinh Giới liền bị nắm tay kéo ra ngoài. Thí như có bốn loại chuột. Một là chuột ở trong phòng, hai là chuột ở trong nhà, ba là chuột ở ruộng hoang, bốn là loại chuột ở nơi dơ sạch lẫn lộn. Loại chuột ở trong phòng thì không thể sống ở đất bằng, loại chuột sống ở đất bằng thì không thể sống trong phòng ốc, loại chuột sống trong ruộng hoang thì không thể sống trong nhà người ta được, chuột trong nhà người ta thì không thể sống ngoài đồng hoang, chuột sống nơi vừa sạch vừa dơ không thể ra khỏi chỗ ấy mà sống được, vì không biết kho lúa đầy ắp vậy. Con người cũng lại có bốn hạng. Sao gọi là bốn hạng? Một là người đoan chánh tâm ý trì giới không phạm, muốn được đạo A la hán; hai là người trì giới tinh tấn muốn được đạo Bích Chi Phật; hạng người thứ ba là trì giới học hỏi, rõ kinh, trí tuệ nhớ độ tất cả, muốn được Phật đạo; hạng thứ tư là giả danh làm đệ tử, mà không thể phụng trì giới sáng suốt, không muốn học hỏi, tâm ý do dự vì sợ không đắc đạo. Ðó là tiền kiếp đệ tử, như bốn loại chuột này.

Ðức Phật dạy:

–Này các đệ tử, trong đất trời có năm con sông lớn. Dòng nước ở phương Ðông có một con sông lớn tên là Sa Lộc, dòng nước ở phương Nam có một con sông lớn tên là A Di, dòng nước ở phương Tây có một con sông lớn tên là Hằng, dòng nước ở phương Bắc có một con sông lớn tên là Mặc Bồi Hồi, dòng nước ở chính giữ tên là Vi Giang. Chúng chảy vào biển đều bỏ tên riêng của nó, chỉ gọi là nước biển.

Ðức Phật dạy:

–Này các đệ tử, có dòng Bà la môn, có dòng Sát Lợi, có dòng Công Sư, có dòng Ðiền gia, có người ăn xin, dòng họ nào cũng tự cho rằng: “Dòng họ của ta là hào quý”, nhưng sự phú quý, an lạc hay bần tiện đều giống như nước của năm con sông lớn chảy vào biển cả. Tất cả mọi dòng họ làm đệ tử của Phật đều bỏ tên họ riêng của mình, chỉ gọi là đệ tử của Phật mà thôi, làm gì có giàu nghèo mà tự cống cao? Kẻ biết trước phải dạy lại cho kẻ biết sau. Không được nói: “Ta biết đạo”, rồi tự cống cao. Không được nói: “Ta học lâu, biết nhiều kinh”, không được nói: “Ý mà ta nghĩ là đúng với đạo, ý của ngươi nghĩ thì sai đạo, nói như vậy đều là phạm giới, không được vào trong chúng. Trong đạo pháp lớn, nhỏ phải cùng nhau dạy dỗ, che chở, hãy cùng nhau thừa kế, có người chưa hiểu kinh đạo, không được nói cho họ nghe những việc sâu xa, đó là lỗi lớn. Lúc trời mưa to, nước mua chảy vào rãnh, nước rãnh chảy vào khe nước, khe chảy vào sông lớn, nước sông lớn chảy vào trong biển, nước trong biển thì không tăng, không giảm.

Này các đệ tử, có người đắc Tu Ðà Hoàn; có người đắc Tư Ðà Hàm; có người đắc A Na Hàm; có người đắc A La Hán; có người đắc Bích Chi Phật; có người đắc A Duy Việt Trí; có người đắc Phật đạo Nê Hoàn; có người đến, có người đi, đạo Phật cũng không tăng, cũng không giảm. Giống như nước biển không tăng không giảm vậy.

Ðức Phật dạy:

–Ở trong biển có loại cá lớn: một là dài bốn ngàn dặm; hai là dài tám ngàn dặm; ba là dài một vạn hai ngàn dặm; bốn là dài một vạn sáu ngàn dặm; năm là dài hai vạn dặm; sáu là dài hai vạn bốn ngàn dặm; bảy là dài hai vạn tám ngàn dặm. Người học đạo nếu không gặp minh sư, nên biết rằng trong thiên hạ có một đạo lớn vậy. Chèo thuyền rong chơi ở rãnh, ao, suối nên biết rằng trong thiên hạ còn có sông to biển lớn nữa. Kinh của đức Phật như sông to bể rộng, tất cả kinh sách của thế gian đều nhờ kinh Phật mà lưu xuất. Kinh đã khó gặp mà được thấy nghe thì nên giữ gìnđọc tụng, lùi lại sau ngàn, vạn ức năm lại có Giới kinh của Phật nữa chăng? Mặt trời, mặt trăng, tinh tú còn có lúc hủy hoại, nhưng phụng hành Giới kinh của Phật không có lúc nào hoại diệt. Từ nay về sau đức Phật không còn thuyết Giới kinh lại nữa. Giới kinh của Phật hết sức quan trọng. Trong đó có người thọ trì giới mà phạm điều ác thì đầu bị bể làm bảy mảnh.

Ðức Phật nói kinh này xong, các đệ tử đều một lòng trân trọng thọ trì Giới kinh, chư thiên, nhân dân, quỷ, thần, rồng đều đến phía trước, đầu mặt lạy Phật sát đất rồi lui ra. 

PHẬT NÓI KINH NƯỚC SÔNG HẰNG

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28957)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20686)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19420)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36419)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33222)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35552)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21912)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25256)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25790)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31243)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18560)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25135)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23763)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28930)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20858)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31445)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25546)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22517)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25714)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25737)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23718)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40599)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22442)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22089)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23501)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16959)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23283)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24308)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41094)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18976)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20474)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27721)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38113)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34064)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36786)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23993)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29177)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60133)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27600)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68734)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24511)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24475)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22692)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26352)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26524)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20817)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20051)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27550)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46415)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53575)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23596)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25562)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29250)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188925)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant