Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11998)
Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự

PHẬT NÓI KINH ÐẢNH SANH VƯƠNG CỐ SỰ


Đại Chánh Tân Tu số 0039 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả A Nanmột mình tại một nơi thanh vắng, liền nghĩ như vầy: “Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước vẫn còn tàng trữ, không có nhàm tởm, biết đủ đối với lòng tham dục”.

Bấy giờ tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ đức Thế Tôn. Ðến rồi đầu mặt lạy đức Phật, ngồi qua một bên. Khi ấy tôn giả A Nan trong khoảng khắc từ chỗ ngồi đứng dậy, qùy xuống chấp tay bạch đức Thế Tôn rằng:

-Vừa rồi, ngay chỗ ngồi thiền, con liền khởi lên ý nghĩ rằng: “Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước con người vẫn không nhàm chán, biết đủ”.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan:

–Quả thật như vậy, này A Nan! Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước con người vẫn còn tàng trữ, thật không có sự nhàm chán biết đủ. Vì sao như vậy? Này A Nan, trong đời quá khứ xưa có một vị vua tên là Ðảnh Sanh, là vị vua lấy chánh pháp cai trị, giáo hóa nhân dân, không có tàn bạo, đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là: xe báu, voi báu, ngựa xanh biếc báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và điển binh báu. Ðó là bảy báu. Cũng có một ngàn người con dũng mãnh, tài cán, nhan sắc khôi ngô, có thể nhiếp phục địch quân, vị ấy thống lĩnh thế giới này cho đến sông ngòi, đại hải, lấy pháp cai trị, giáo hóa nhân dân, không dùng dao gậy.

Này A Nan, bấy giờ đại vương Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa thọ mạng lâu dài, thông minh trí tuệ, nói như vầy; nhưng ta có châu Diêm Phù Lợi này, có thế lực thần thông, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn vinh trù phú”. Vua bèn sanh ý nghĩ này: “Ta muốn có trận mưa bảy báu ngay trong cung điện của ta”. Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh vừa khởi lên ý nghĩ đó, trời liền mưa bảy báu trong bảy ngày.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa thọ mạng lâu dài, thông minh trí tuệ, nói rằng có xứ Phất Vu Ðãi, thần túc tự tại, lúa gạo phì nhiêu, nhân dân phồn thịnh trù phú, ta muốn đến xứ đó để cai trị giáo hóa”. Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh mới nghĩ như vậy xong, biến mất khỏi Diêm Phù Lợi, hiện ra ở Phất Vu Ðãi, cùng với bốn bộ binh chủng. Bấy giờ chúng sanh ở Phất Vu Ðãi từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đến, mọi người vây quanh nhà vua, ai cũng đem bát bằng bạc đựng đầy vàng vụn, hoặc cầm bát bằng vàng đựng đầy bạc vụn, đi đến chỗ vua Ðảnh Sanh. Ðến rồi thưa với vua Ðảnh Sanh: -Lành thay đại vương đã đến! Cõi Phất Vu Ðãi này là của đại vương, thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Mong đại vương hãy ở đây để cai trị giáo hóa, tất cả chúng tôi đều là thần dân của đại vương.

Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh ở đó để cai trị giáo hóa trong vô số trăm ngàn năm. Này A Nan,, khi đó đại vương Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta có châu Diêm Phù Ðề, ưa muốn điều gì liền được toại nguyện, có thần túc, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta đã có mưa bảy báu trong cung điện suốt bảy ngày, nay ta lại có cõi Phất Vu Ðãi tự tại thần túc, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta từng nghe người xưa thông minh trí tuệ, nói như vầy: “Có quốc thổ Cù Da Ni thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú”. Vua liền nghĩ như vầy: “Ta muốn đến cõi Cù Da Ni để giáo hóa nhân dân”. Này A Nan, khi vua Ðảnh Sanh nghĩ như vậy xong, liền biến mất khỏi Phất Vu Ðãi, đến cõi Cù Da Ni cùng với bốn loại binh chủng. Lúc đó nhân dân Cù Da Ni từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh họ đều cầm bát bằng bạc đựng đầy vàng vụn, hay cầm bát bằng vàng đựng đầy bạc vụn, đều mang đến chỗ vua Ðảnh Sanh để dâng hiến. Ðến xong họ thưa với vua Ðảnh Sanh rằng: -Lành thay đại vương đã đến! Ðây là cảnh giới Cù Da Ni của vua, lúa thóc sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Cúi mong đại vương hãy ở lại đây để giáo hóa nhân dân. Chúng tôi đều là thần dân của đại vương.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh ở Cù Da Ni để cai trị giáo hóa nhân dân vô số trăm ngàn, vô số vạn năm.

Này A Nan, bấy giờ vào một đời khác, đại vương Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta có đất Diêm Phù Lợi, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú, có mưa bảy báu trong cung điện cho đến bảy ngày. Ta lại có cõi Phất Vu Ðãi thần dân tự tại, lúa gạo dồi dào, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta lại cũng có cõi Cù Da Ni, thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú”. Khi ấy vua Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa, bậc thông minh trí tuệ, nói như vầy: Có châu Uất Ðơn Việt, thần túc tự tại, nhân dân phồn thịnh trù phú. Tất cả nhân dân ở trong cõi đó đều không bị lệ thuộc bất cứ thứ gì, ý muốn tự tại, thọ mạng lâu dài, ở đó mạng chung lại sanh lên trời, ăn lúa gạo tự nhiên, mặc y phục Kiếp Ba Dục”. Bấy giờ vua Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta hãy ở đó để cai trị giáo hóa”. Mới nghĩ như vậy, này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh liền biến mất ở Cù Da Ni liền đến Uất Ðơn Việt cùng với bốn thứ binh chủng. Khi ấy vua Ðảnh Sanh từ xa trông thấy cõi nước ấy đất đai bằng phẳng, toàn là màu sắc xanh tươi. Khi vua thấy màu sắc như vậy liền bảo với nhân dân, quần thần:

–Các khanh, các ngươi có thấy đất đai bằng phẳng, màu sắc xanh tươi không?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy, thưa đại vương!

Vua bảo:

–Ðây là loại cây Kiếp Ba Dục dùng để làm áo, nhân dân ở đây đều mặc áo Kiếp Ba Dục. Các khanh cũng hãy mặc áo Kiếp Ba Dục.

Bấy giờ đại vương Ðảnh Sanh lại thấy đất đai nơi này toàn là sắc trắng, thấy rồi bèn bảo các quần thần: -Các khanh có thấy đất này toàn bộ màu trắng chăng?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy!

Ở đây lúa thóc tự nhiên, không có vỏ, không có cành, không cần ra sức chà đập, cũng không cần giê gạo cho sạch cám. Gạo có mùi hương bay theo gió thơm cả một trăm do tuần, nếu bay ngược gió thì thơm đến năm mươi do tuần, rất thơm, rất ngon. Nhân dân ở đây ăn gạo lúa thơm này. Chư hiền cũng hãy ăn gạo lúa thơm này.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh từ xa trông thấy đất đai bằng phẳng, toàn là màu xanh tươi. Thấy rồi bảo nhân dân, quần thần rằng:

–Các ngươi thấy đất đai ở đó toàn màu xanh tươi chăng?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy, thưa đại vương!

Ðó là loại cỏ Tứ chỉ mềm mại, rất mềm mại, như lông chim Khổng tước, chúng đều xoay quanh phía hữu, thân của chúng cũng vậy. Người Uất Ðơn Việt đều ngồi trên cỏ này, các khanh cũng nên ngồi trên cỏ đó. Khi ấy đại vương Ðảnh Sanh từ xa trông thấy những bức tường thấp bao quanh thành quách lâu đài, bèn bảo nhân dân quần thần rằng:

–Các khanh có thấy đất đai ở đây bằng phẳng, có tường thấp bao quanh lâu đài chăng?

Thưa rằng:

–Ðúng vậy, thưa đại vương!

Vua bảo:

–Ðó là nhà cửa của nhân dân vậy.

Lúc ấy nhân dân Uất Ðơn Việt từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đến, đều lấy bát bằng vàng đựng lúa bằng bạc, lấy bát bạc đựng đầy lúa vàng, tâu với vua Ðảnh Sanh rằng: “Lành thay đại vương đã đến đây. Ngài có thần túc tự tại. Ðây là cõi Uất Ðơn Việt của đại vương, lúa gạo sung túc, nhân dân đông đúc, cúi xin đại vương hãy ở Uất Ðơn Việt mà cai trị giáo hóa nhân dân. Chúng tôi đều vâng theo lời dạy của đại vương.

Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh ở Uất Ðơn Việt để cai trị giáo hóa nhân dân trong vô số trăm năm, vô số ngàn năm.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh vào lúc khác lại nghĩ như vầy: “Ta đã có cõi Diêm Phù Lợi, thần túc tự tại cho đến nhân dân đông đúc. Ở đó ta được mưa bảy báu trong cung bảy ngày. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc tự tại, nhân dân đông đúc. Ta cũng có cõi Cù Da Ni, thần túc tự tại, nhân dân đông đúc. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt, thần túc tự tại, cho đến nhân dân đông đúc. Ta từng nghe người xưa, bậc thông minh trí tuệ, nói như vầy: Có cõi Tam Thập tam thiên, (nhân dân) ở đó thọ mạng lâu dài, dung mạo đoan chánh. Ở đó có một vị trời tên là Thích Ðề Hoàn Nhân, nay ta sẽ đến cõi Tam Thập tam thiên ấy để thọ hưởng năm thứ: tuổi của trời, sắc đẹp của trời, nhạc trời, thần túc của trời và tăng thượng của trời. Nay ta muốn đến cõi Tam Thập tam thiên ấy”.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh mới nghĩ như vậy xong liền cùng bốn binh chủng biến mất nơi cõi Uất Ðơn Việt , đến Tam Thập tam thiên, đi vào giảng đường Thiện Pháp. Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhân (trời Ðế Thích) từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đi lại, thấy rồi liền bảo vua Ðảnh Sanh rằng:

–Lành thay, đại vương đã đến! Hãy ngồi vào tòa này.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh liền đến tòa mà ngồi cùng với Thích Ðề Hoàn Nhân. Hai vua cùng ngồi hoàn toàn không khác gì nhau về dung nhan, tướng mạo đoan chánh, họ đều chẳng sai khác. Chỉ có ánh mắt là khác nhau thôi.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta có cõi Diêm Phù Lợi, thần túc tự tại cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú, ơ û trong cung điện có mưa bảy báu cho đến bảy ngày. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta cũng có cõi Cù Da Ni thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú, và cõi Tam Thập tam thiên này nhân dân trường thọ. Ta sẽ ở lâu chốn này.

Khi ấy ở Tam Thập tam thiên tập hợp ở giảng đường Thiện Pháp, mọi người theo thứ lớp ngồi xong, bấy giờ Tam Thập tam thiên bèn suy nghĩ rằng: “Vua Ðảnh Sanh là vua cõi Diêm Phù Lợi, lấy pháp để cai trị giáo hóa, có bảy báu đầy đủ, có một ngàn người con trai vây quanh. Trong bốn cảnh giới, vua này là hết sức tôn quý. Nhà vua không dùng dao gậy, chỉ dùng pháp cai trị giáo hóa nhân dân”.

Này A Nan, lúc đó Thích Ðề Hoàn Nhân nhường nửa tòa mời vua Ðảnh Sanh cùng ngồi. Hai vua cùng ngồi ánh sáng và màu sắc không khác nhau, nhan sắc, dung mạo hoàn toàn giống nhau, chỉ có ánh mắt là khác nhau thôi.

Này A Nan, lúc đó vua Ðảnh Sanh đối với năm thứ dục lạc dùng để tự vui vẫn không nhàm chán, biết đủ, trong vô số trăm ngàn năm, vô số vạn năm. Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác liền sanh ý nghĩ như vầy: “Những cảnh giới do ta thống lĩnh gồm có cõi Diêm Phù Lợi thần túc cho đến nhân dân đều sung túc, trong bảy ngày mưa bảy báu trên cung điện ta. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta cũng có cõi Cù Da Ni thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta lại có ở đây cõi Tam Thập tam thiên thọ mạng lâu dài, nhan sắc rực rỡ. Có giảng đường Thiện Pháp này có đủ bốn khu vườn. Những gì là bốn?

–Vườn Nam Ðàn Hoàn, vườn Bảo Ðiện, vườn Quy Kiên, vườn Tạp Chủng. Ðó là bốn khu vườn. Có cây Trú Ðạt Thọ, cây Câu Tỳ Ða La thảy đều sầm uất, mùi hương bay theo chiều gió thơm cả một trăm do tuần. Nếu lúc ngược gió thơm đến năm mươi do tuần. Ðó là chỗ vui chơi của Tam Thập tam thiên, trong bốn tháng, dân ở đó dùng ngũ dục để tự hoan lạc. Thiện Pháp giảng đường làm bằng lưu ly xanh, đó chính là chỗ ngồi của Thiên Ðế, có trăm đài chung quanh đều làm bằng bảy báu, mỗi mỗi đài có bảy trăm lầu gác, mỗi mỗi lầu gác có bảy trăm Ngọc nữ, mỗi mỗi Ngọc nữ có bảy trăm người hầu, tất cả đều do Thích Ðề Hoàn Nhân thống lĩnh.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh lại nghĩ như vầy: “Ta nay nên di chuyển Thích Ðề Hoàn Nhân đi, ta sẽ giáo hóa cai trị chư thiênTam Thập tam thiên này. Này A Nan, khi vua Ðảnh Sanh vừa nghĩ như vậy, liền ngay nơi chỗ ngồi của Thích Ðề Hoàn Nhân rớt xuống Diêm Phù Lợi cùng với bốn thứ binh chủng, mất hết thần túc, toàn thân đau đớn, giống như người lúc sắp chết, thì xe báu mất, voi báu chết, ngựa báu cũng chết, châu báu không hiện, nữ báu mạng chung, cư sĩ báu và điển binh báu đều chết hết.

Này A Nan, bấy giờ năm nhóm thân thuộc của đại vương Ðảnh Sanh đều nhóm họp lại, đi đến chỗ vua Ðảnh Sanh tâu rằng:

–Sau khi đại vương mạng chung, nếu có người đến hỏi chúng thần rằng: “Ðại vương Ðảnh Sanh lúc sắp băng hà có chỉ bảo điều gì?”, chúng thần sẽ đáp như thế nào?

Nhà vua bảo:

–Các hiền nên biết, đại vương Ðảnh Sanh thống lĩnh bốn châu thiên hạ, lên đến Tam Thập tam thiên, nhưng đối với ngũ dục lòng vẫn chưa nhàm chán, chưa biết thỏa mãn, cho đến lúc chết.

Này A Nan, ngươi nên biết rằng vua Ðảnh Sanh lúc đó nào phải người nào khác. Ðừng nên nghĩ như vậy. Vì sao? Này A Nan, vị vua lúc đó chính là thân ta vậy. Do phương tiện này, A Nan nên biết, cho đến (lúc chết) mà đối với ngũ dục vẫn không nhàm chán, biết đủ; do nhiễm trước đối với dục, tụ tập tàng trữ, không có nhàm chán biết đủ đối với dục. Cái gọi là biết đủ đối với dục chừng nào đạt đến con đường của Hiền thánh, chừng đó mới biết đủ.

Bấy giờ đức Thế Tôn bèn nói bài kệ rằng:

Không phải có tiền tài

Mà biết nhàm chán dục

Vui ít, khổ não nhiều

Kẻ trí nào ham muốn.

Giả sử trong ngũ dục

Mà lòng không tham đắm

Ái hết liền được vui

Cả ba, đệ tử Phật.

Do dục tham lợi dưỡng

Chết liền vào địa ngục

Dục lạc sẽ thế nào

Mạng người bị thống khổ.

Các pháp đều vô thường

Ðã sanh phải bại hoại

sanh sanh chấm dứt

Diệt dục, vui đệ nhất.

Bấy giờ tôn giả A Nan nghe đức Phật dạy, hoan hỷ vâng làm.

 

PHẬT NÓI KINH ÐẢNH SANH VƯƠNG CỐ SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28957)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20688)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19422)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30487)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36422)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33224)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35556)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21913)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25256)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25792)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31248)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18562)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25139)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23766)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28931)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20860)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31445)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25547)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22521)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25715)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23274)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25738)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23720)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40599)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23347)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22444)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22090)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23502)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16962)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23284)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24308)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41094)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18977)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20475)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27724)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38114)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34066)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36786)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23996)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29178)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60135)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27602)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68734)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24512)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24477)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22693)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26352)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26528)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20821)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20052)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27551)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46420)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53575)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23597)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25565)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29257)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188931)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant