Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11995)
Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự

PHẬT NÓI KINH ÐẢNH SANH VƯƠNG CỐ SỰ


Đại Chánh Tân Tu số 0039 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả A Nanmột mình tại một nơi thanh vắng, liền nghĩ như vầy: “Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước vẫn còn tàng trữ, không có nhàm tởm, biết đủ đối với lòng tham dục”.

Bấy giờ tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ đức Thế Tôn. Ðến rồi đầu mặt lạy đức Phật, ngồi qua một bên. Khi ấy tôn giả A Nan trong khoảng khắc từ chỗ ngồi đứng dậy, qùy xuống chấp tay bạch đức Thế Tôn rằng:

-Vừa rồi, ngay chỗ ngồi thiền, con liền khởi lên ý nghĩ rằng: “Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước con người vẫn không nhàm chán, biết đủ”.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan:

–Quả thật như vậy, này A Nan! Cho đến (lúc chết), lòng tham dục, nhiễm trước con người vẫn còn tàng trữ, thật không có sự nhàm chán biết đủ. Vì sao như vậy? Này A Nan, trong đời quá khứ xưa có một vị vua tên là Ðảnh Sanh, là vị vua lấy chánh pháp cai trị, giáo hóa nhân dân, không có tàn bạo, đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là: xe báu, voi báu, ngựa xanh biếc báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và điển binh báu. Ðó là bảy báu. Cũng có một ngàn người con dũng mãnh, tài cán, nhan sắc khôi ngô, có thể nhiếp phục địch quân, vị ấy thống lĩnh thế giới này cho đến sông ngòi, đại hải, lấy pháp cai trị, giáo hóa nhân dân, không dùng dao gậy.

Này A Nan, bấy giờ đại vương Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa thọ mạng lâu dài, thông minh trí tuệ, nói như vầy; nhưng ta có châu Diêm Phù Lợi này, có thế lực thần thông, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn vinh trù phú”. Vua bèn sanh ý nghĩ này: “Ta muốn có trận mưa bảy báu ngay trong cung điện của ta”. Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh vừa khởi lên ý nghĩ đó, trời liền mưa bảy báu trong bảy ngày.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa thọ mạng lâu dài, thông minh trí tuệ, nói rằng có xứ Phất Vu Ðãi, thần túc tự tại, lúa gạo phì nhiêu, nhân dân phồn thịnh trù phú, ta muốn đến xứ đó để cai trị giáo hóa”. Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh mới nghĩ như vậy xong, biến mất khỏi Diêm Phù Lợi, hiện ra ở Phất Vu Ðãi, cùng với bốn bộ binh chủng. Bấy giờ chúng sanh ở Phất Vu Ðãi từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đến, mọi người vây quanh nhà vua, ai cũng đem bát bằng bạc đựng đầy vàng vụn, hoặc cầm bát bằng vàng đựng đầy bạc vụn, đi đến chỗ vua Ðảnh Sanh. Ðến rồi thưa với vua Ðảnh Sanh: -Lành thay đại vương đã đến! Cõi Phất Vu Ðãi này là của đại vương, thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Mong đại vương hãy ở đây để cai trị giáo hóa, tất cả chúng tôi đều là thần dân của đại vương.

Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh ở đó để cai trị giáo hóa trong vô số trăm ngàn năm. Này A Nan,, khi đó đại vương Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta có châu Diêm Phù Ðề, ưa muốn điều gì liền được toại nguyện, có thần túc, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta đã có mưa bảy báu trong cung điện suốt bảy ngày, nay ta lại có cõi Phất Vu Ðãi tự tại thần túc, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta từng nghe người xưa thông minh trí tuệ, nói như vầy: “Có quốc thổ Cù Da Ni thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú”. Vua liền nghĩ như vầy: “Ta muốn đến cõi Cù Da Ni để giáo hóa nhân dân”. Này A Nan, khi vua Ðảnh Sanh nghĩ như vậy xong, liền biến mất khỏi Phất Vu Ðãi, đến cõi Cù Da Ni cùng với bốn loại binh chủng. Lúc đó nhân dân Cù Da Ni từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh họ đều cầm bát bằng bạc đựng đầy vàng vụn, hay cầm bát bằng vàng đựng đầy bạc vụn, đều mang đến chỗ vua Ðảnh Sanh để dâng hiến. Ðến xong họ thưa với vua Ðảnh Sanh rằng: -Lành thay đại vương đã đến! Ðây là cảnh giới Cù Da Ni của vua, lúa thóc sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú. Cúi mong đại vương hãy ở lại đây để giáo hóa nhân dân. Chúng tôi đều là thần dân của đại vương.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh ở Cù Da Ni để cai trị giáo hóa nhân dân vô số trăm ngàn, vô số vạn năm.

Này A Nan, bấy giờ vào một đời khác, đại vương Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta có đất Diêm Phù Lợi, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú, có mưa bảy báu trong cung điện cho đến bảy ngày. Ta lại có cõi Phất Vu Ðãi thần dân tự tại, lúa gạo dồi dào, nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta lại cũng có cõi Cù Da Ni, thần túc tự tại, lúa gạo sung túc, nhân dân phồn thịnh trù phú”. Khi ấy vua Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta từng nghe người xưa, bậc thông minh trí tuệ, nói như vầy: Có châu Uất Ðơn Việt, thần túc tự tại, nhân dân phồn thịnh trù phú. Tất cả nhân dân ở trong cõi đó đều không bị lệ thuộc bất cứ thứ gì, ý muốn tự tại, thọ mạng lâu dài, ở đó mạng chung lại sanh lên trời, ăn lúa gạo tự nhiên, mặc y phục Kiếp Ba Dục”. Bấy giờ vua Ðảnh Sanh bèn nghĩ như vầy: “Ta hãy ở đó để cai trị giáo hóa”. Mới nghĩ như vậy, này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh liền biến mất ở Cù Da Ni liền đến Uất Ðơn Việt cùng với bốn thứ binh chủng. Khi ấy vua Ðảnh Sanh từ xa trông thấy cõi nước ấy đất đai bằng phẳng, toàn là màu sắc xanh tươi. Khi vua thấy màu sắc như vậy liền bảo với nhân dân, quần thần:

–Các khanh, các ngươi có thấy đất đai bằng phẳng, màu sắc xanh tươi không?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy, thưa đại vương!

Vua bảo:

–Ðây là loại cây Kiếp Ba Dục dùng để làm áo, nhân dân ở đây đều mặc áo Kiếp Ba Dục. Các khanh cũng hãy mặc áo Kiếp Ba Dục.

Bấy giờ đại vương Ðảnh Sanh lại thấy đất đai nơi này toàn là sắc trắng, thấy rồi bèn bảo các quần thần: -Các khanh có thấy đất này toàn bộ màu trắng chăng?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy!

Ở đây lúa thóc tự nhiên, không có vỏ, không có cành, không cần ra sức chà đập, cũng không cần giê gạo cho sạch cám. Gạo có mùi hương bay theo gió thơm cả một trăm do tuần, nếu bay ngược gió thì thơm đến năm mươi do tuần, rất thơm, rất ngon. Nhân dân ở đây ăn gạo lúa thơm này. Chư hiền cũng hãy ăn gạo lúa thơm này.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh từ xa trông thấy đất đai bằng phẳng, toàn là màu xanh tươi. Thấy rồi bảo nhân dân, quần thần rằng:

–Các ngươi thấy đất đai ở đó toàn màu xanh tươi chăng?

Thưa rằng:

–Quả thật như vậy, thưa đại vương!

Ðó là loại cỏ Tứ chỉ mềm mại, rất mềm mại, như lông chim Khổng tước, chúng đều xoay quanh phía hữu, thân của chúng cũng vậy. Người Uất Ðơn Việt đều ngồi trên cỏ này, các khanh cũng nên ngồi trên cỏ đó. Khi ấy đại vương Ðảnh Sanh từ xa trông thấy những bức tường thấp bao quanh thành quách lâu đài, bèn bảo nhân dân quần thần rằng:

–Các khanh có thấy đất đai ở đây bằng phẳng, có tường thấp bao quanh lâu đài chăng?

Thưa rằng:

–Ðúng vậy, thưa đại vương!

Vua bảo:

–Ðó là nhà cửa của nhân dân vậy.

Lúc ấy nhân dân Uất Ðơn Việt từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đến, đều lấy bát bằng vàng đựng lúa bằng bạc, lấy bát bạc đựng đầy lúa vàng, tâu với vua Ðảnh Sanh rằng: “Lành thay đại vương đã đến đây. Ngài có thần túc tự tại. Ðây là cõi Uất Ðơn Việt của đại vương, lúa gạo sung túc, nhân dân đông đúc, cúi xin đại vương hãy ở Uất Ðơn Việt mà cai trị giáo hóa nhân dân. Chúng tôi đều vâng theo lời dạy của đại vương.

Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh ở Uất Ðơn Việt để cai trị giáo hóa nhân dân trong vô số trăm năm, vô số ngàn năm.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh vào lúc khác lại nghĩ như vầy: “Ta đã có cõi Diêm Phù Lợi, thần túc tự tại cho đến nhân dân đông đúc. Ở đó ta được mưa bảy báu trong cung bảy ngày. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc tự tại, nhân dân đông đúc. Ta cũng có cõi Cù Da Ni, thần túc tự tại, nhân dân đông đúc. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt, thần túc tự tại, cho đến nhân dân đông đúc. Ta từng nghe người xưa, bậc thông minh trí tuệ, nói như vầy: Có cõi Tam Thập tam thiên, (nhân dân) ở đó thọ mạng lâu dài, dung mạo đoan chánh. Ở đó có một vị trời tên là Thích Ðề Hoàn Nhân, nay ta sẽ đến cõi Tam Thập tam thiên ấy để thọ hưởng năm thứ: tuổi của trời, sắc đẹp của trời, nhạc trời, thần túc của trời và tăng thượng của trời. Nay ta muốn đến cõi Tam Thập tam thiên ấy”.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh mới nghĩ như vậy xong liền cùng bốn binh chủng biến mất nơi cõi Uất Ðơn Việt , đến Tam Thập tam thiên, đi vào giảng đường Thiện Pháp. Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhân (trời Ðế Thích) từ xa trông thấy vua Ðảnh Sanh đi lại, thấy rồi liền bảo vua Ðảnh Sanh rằng:

–Lành thay, đại vương đã đến! Hãy ngồi vào tòa này.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh liền đến tòa mà ngồi cùng với Thích Ðề Hoàn Nhân. Hai vua cùng ngồi hoàn toàn không khác gì nhau về dung nhan, tướng mạo đoan chánh, họ đều chẳng sai khác. Chỉ có ánh mắt là khác nhau thôi.

Bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác bèn nghĩ như vầy: “Ta có cõi Diêm Phù Lợi, thần túc tự tại cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú, ơ û trong cung điện có mưa bảy báu cho đến bảy ngày. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta cũng có cõi Cù Da Ni thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt thần túc tự tại, cho đến nhân dân phồn thịnh trù phú, và cõi Tam Thập tam thiên này nhân dân trường thọ. Ta sẽ ở lâu chốn này.

Khi ấy ở Tam Thập tam thiên tập hợp ở giảng đường Thiện Pháp, mọi người theo thứ lớp ngồi xong, bấy giờ Tam Thập tam thiên bèn suy nghĩ rằng: “Vua Ðảnh Sanh là vua cõi Diêm Phù Lợi, lấy pháp để cai trị giáo hóa, có bảy báu đầy đủ, có một ngàn người con trai vây quanh. Trong bốn cảnh giới, vua này là hết sức tôn quý. Nhà vua không dùng dao gậy, chỉ dùng pháp cai trị giáo hóa nhân dân”.

Này A Nan, lúc đó Thích Ðề Hoàn Nhân nhường nửa tòa mời vua Ðảnh Sanh cùng ngồi. Hai vua cùng ngồi ánh sáng và màu sắc không khác nhau, nhan sắc, dung mạo hoàn toàn giống nhau, chỉ có ánh mắt là khác nhau thôi.

Này A Nan, lúc đó vua Ðảnh Sanh đối với năm thứ dục lạc dùng để tự vui vẫn không nhàm chán, biết đủ, trong vô số trăm ngàn năm, vô số vạn năm. Này A Nan, bấy giờ vua Ðảnh Sanh lại vào lúc khác liền sanh ý nghĩ như vầy: “Những cảnh giới do ta thống lĩnh gồm có cõi Diêm Phù Lợi thần túc cho đến nhân dân đều sung túc, trong bảy ngày mưa bảy báu trên cung điện ta. Ta cũng có cõi Phất Vu Ðãi thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta cũng có cõi Cù Da Ni thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta cũng có cõi Uất Ðơn Việt thần túc cho đến nhân dân đều thịnh vượng. Ta lại có ở đây cõi Tam Thập tam thiên thọ mạng lâu dài, nhan sắc rực rỡ. Có giảng đường Thiện Pháp này có đủ bốn khu vườn. Những gì là bốn?

–Vườn Nam Ðàn Hoàn, vườn Bảo Ðiện, vườn Quy Kiên, vườn Tạp Chủng. Ðó là bốn khu vườn. Có cây Trú Ðạt Thọ, cây Câu Tỳ Ða La thảy đều sầm uất, mùi hương bay theo chiều gió thơm cả một trăm do tuần. Nếu lúc ngược gió thơm đến năm mươi do tuần. Ðó là chỗ vui chơi của Tam Thập tam thiên, trong bốn tháng, dân ở đó dùng ngũ dục để tự hoan lạc. Thiện Pháp giảng đường làm bằng lưu ly xanh, đó chính là chỗ ngồi của Thiên Ðế, có trăm đài chung quanh đều làm bằng bảy báu, mỗi mỗi đài có bảy trăm lầu gác, mỗi mỗi lầu gác có bảy trăm Ngọc nữ, mỗi mỗi Ngọc nữ có bảy trăm người hầu, tất cả đều do Thích Ðề Hoàn Nhân thống lĩnh.

Này A Nan, khi ấy vua Ðảnh Sanh lại nghĩ như vầy: “Ta nay nên di chuyển Thích Ðề Hoàn Nhân đi, ta sẽ giáo hóa cai trị chư thiênTam Thập tam thiên này. Này A Nan, khi vua Ðảnh Sanh vừa nghĩ như vậy, liền ngay nơi chỗ ngồi của Thích Ðề Hoàn Nhân rớt xuống Diêm Phù Lợi cùng với bốn thứ binh chủng, mất hết thần túc, toàn thân đau đớn, giống như người lúc sắp chết, thì xe báu mất, voi báu chết, ngựa báu cũng chết, châu báu không hiện, nữ báu mạng chung, cư sĩ báu và điển binh báu đều chết hết.

Này A Nan, bấy giờ năm nhóm thân thuộc của đại vương Ðảnh Sanh đều nhóm họp lại, đi đến chỗ vua Ðảnh Sanh tâu rằng:

–Sau khi đại vương mạng chung, nếu có người đến hỏi chúng thần rằng: “Ðại vương Ðảnh Sanh lúc sắp băng hà có chỉ bảo điều gì?”, chúng thần sẽ đáp như thế nào?

Nhà vua bảo:

–Các hiền nên biết, đại vương Ðảnh Sanh thống lĩnh bốn châu thiên hạ, lên đến Tam Thập tam thiên, nhưng đối với ngũ dục lòng vẫn chưa nhàm chán, chưa biết thỏa mãn, cho đến lúc chết.

Này A Nan, ngươi nên biết rằng vua Ðảnh Sanh lúc đó nào phải người nào khác. Ðừng nên nghĩ như vậy. Vì sao? Này A Nan, vị vua lúc đó chính là thân ta vậy. Do phương tiện này, A Nan nên biết, cho đến (lúc chết) mà đối với ngũ dục vẫn không nhàm chán, biết đủ; do nhiễm trước đối với dục, tụ tập tàng trữ, không có nhàm chán biết đủ đối với dục. Cái gọi là biết đủ đối với dục chừng nào đạt đến con đường của Hiền thánh, chừng đó mới biết đủ.

Bấy giờ đức Thế Tôn bèn nói bài kệ rằng:

Không phải có tiền tài

Mà biết nhàm chán dục

Vui ít, khổ não nhiều

Kẻ trí nào ham muốn.

Giả sử trong ngũ dục

Mà lòng không tham đắm

Ái hết liền được vui

Cả ba, đệ tử Phật.

Do dục tham lợi dưỡng

Chết liền vào địa ngục

Dục lạc sẽ thế nào

Mạng người bị thống khổ.

Các pháp đều vô thường

Ðã sanh phải bại hoại

sanh sanh chấm dứt

Diệt dục, vui đệ nhất.

Bấy giờ tôn giả A Nan nghe đức Phật dạy, hoan hỷ vâng làm.

 

PHẬT NÓI KINH ÐẢNH SANH VƯƠNG CỐ SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27172)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21765)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20429)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24740)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23981)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26506)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21301)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23218)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22788)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29563)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20634)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18850)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19648)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20149)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19950)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18112)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22922)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34163)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39240)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26057)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18846)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24052)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29111)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30945)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20676)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26251)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30026)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20215)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15827)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23869)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19845)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant