Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vua Đại Chánh Cú

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11993)
Kinh Vua Đại Chánh Cú


PHẬT NÓI KINH VUA ÐẠI CHÁNH CÚ


Đại Chánh Tân Tu số 0045 - Nguyên tác Hán ngữ [1] [2]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên Tam Tạng Triều Tán Ðại phu Thí Quang Lộc Khanh. Minh Giáo Ðại Sư và Pháp Hiền.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Tôi nghe như vầy : Một thời tôn giả Ðồng tử Ca Diếp ở nước Câu Tát La, tuần tự du hành dừng chân ở trong vườn Lộc dã của rừng Thi Lợi Sa phía Bắc của đại thành Thi Lợi Sa.

Bấy giờ có vị vua tên là Ðại Chánh Cú, đóng đô ở thành Thi Lợi Sa. Nhà vua trước đây không tin nhân quả thường nói như vầy : “Không có đời sau, cũng không có người tái sanh, không có hóa sanh”. Ông thường khởi ra đoạn kiến như vậy.

Khi ấy ở trong đại thành Tỳ Lợi Sa có các đại Bà la môntrưởng giả chủ... cùng nhau bàn luận rằng : “Tại sao vị Sa môn Ðồng tử Ca Diếp này đi đến phía bắc của thành này, ở trong vườn Lộc Dã, rừng cây Thi Lợi Sa ? Bấy giờ tôn giả Ca Diếp ở trong thành kia tiếng tăm đồn khắp, nhưng tất cả nhân dân ở trong thành ấy vốn trước đây đã nghe tôn giả Ca Diếp khéo nói pháp cốt yếu, thường nói nhiều nghĩa thâm diệu, ngài đã được an vui, thường hành đầu đà, ngài chính là bậc Ứng Cúng, chính là bậc đại A la hán. Nay ngài đã đến đây, chúng ta nên cùng nhau đến rừng kia để lễ bái, kính cẩn cúng dường”.

Bấy giờ các đại Bà la môn, trưởng giả ... ở trong thành đều ra khỏi phía bắc của thành, đi đến vườn Lộc Dã, rừng Thi Lợi Sa muốn được tham vấn. Khi ấy vua Ðại Chánh Cú đứng ở trên lầu cao, từ xa trông thấy Bà la môn, trưởng giả ... ở trong thành đồng ra khỏi thành, đi đến phía bắc thành vào trong vườn Lộc dã, rừng Thi Lợi Sa. Nhà vua thấy rồi hỏi vị quan hầu : “Tại sao Bà la môn, trưởng giả ở trong thành đều cùng nhau ra khỏi thành vào trong vườn Lộc Dã, rừng Thi Lợi Sa ?”.

Quan hầu thưa : “Có một Sa môn tên là Ðồng tử Ca Diếp đang du hóa đến phía bắc của đại thành này, an trú trong vườn Lộc Dã, rừng Thi Lợi Sa. Cho nên các Bà la môn, trưởng giả ... ở trong thành đều cùng nhau ra khỏi thành để lễ bái kính cẩn cúng dường.

Nhà vua nghe lời tâu rồi liền bảo quan hầu : “Ngươi hãy đến chỗ đó bảo cho chúng Bà la môn, trưởng giả ... kia hãy dừng lại một chút để chờ ta. Nay ta sẽ đến liền để cùng họ đồng đến chỗ trên để lễ bái, kính cẩn Sa môn Ðồng tử Ca Diếp. Vì sao ? Vì theo ý ta sợ các Bà la môn, trưởng giả này bị Sa môn Ðồng tử Ca Diếp dùng tà pháp để dẫn dắt. Vị này không căn cứ vào trí thức dối nói là “có người và có đời sau, lại có hóa sanh”.

Khi ấy vị quan hầu kia vâng lệnh của vua xong, đi đến chỗ Bà la môn, trưởng giả ... tuyên bố lệnh của vua với những người ấy rằng : “Vua Ðại Chánh Cú bảo các ngươi hãy dừng lại chốc lát vua sẽ đến liền để cùng đi với các ngươi đến lễ bái kính cẩn Sa môn Ðồng tử Ca Diếp”. Mọi người vâng lệnh của vua không dám đi trước. Bấy giờ quan hầu truyền lệnh của vua xong, liền trở về chỗ vua tâu lại sự việc trên rằng : “Vừa rồi thần phụng mạng đức vua đi đến chỗ các Bà la môn, trưởng giả đã truyền thánh chỉ đầy đủ rằng : “Vua bảo các Bà la môn, trưởng giả hãy dừng lại giây lát, nay vua sẽ đến liền để cùng các người đồng đến lễ bái Sa môn Ðồng tử Ca Diếp”. Những người ấy đã vâng lệnh dừng lại không đi.

Bấy giờ vua Ðại Chánh Cú chuẩn bị xe cộ ra khỏi cung thành cùng với chúng Bà la môntrưởng giả đồng đi đến vườn Lộc Dã, rừng cây Thi Lợi Sa. Tâm vua kiêu mạn, cỡi xe đi đến chỗ không đi được mới xuống xe đi bộ vào trong vườn chỗ tôn giả đang ở. Khi ấy vua Ðại Chánh Cú cùng chúng Bà la môn, trưởng giả đồng thấy tôn giả Ðồng tử Ca Diếp. Ban đầu họ chưa có đức tin lớn với tôn giả cho nên họ không cung kính nhiều. Nhà vua và tôn giả cùng nhau hỏi thăm rồi lui về ngồi qua một bên. Bấy giờ các chúng Bà la môn, trưởng giả thấy nhà vua như vậy, họ cũng có chút trịnh trọng, đều cùng nhau chào hỏi, rồi đứng chung quanh.

Bấy giờ đại vương liền hỏi thẳng rằng : “Này tôn giả Ca Diếp ! Hãy lắng nghe tôi nói. Theo ý tôi thì không có đời sau, cũng không có người tái sanh, cũng không có hóa sanh. Ý của tôi là như vậy, còn ý của tôn giả thì thế nào ?”. Tôn giả Ca Diếp đáp : “Nếu vua muốn nghe ý nghĩa chơn chánh như vậy, trước hết phải thành tâm tin một cách chắc thật ta sẽ nói cho”.

Vua liền đáp : “Thưa vâng, tôi xin thọ giáo”. Bấy giờ tôn giả Ca Diếp bảo đại vương : “Nhà vua thấy mặt trời, mặt trăng là có hay không có ? Nó thuộc về đời này hay đời sau ? Lý ấy quá rõ ràng không nên ủy thác. Này đại vương, ngài thấy như thế nào và nghe như thế nào ?”.

Vua đáp : “Này Ca Diếp ! Sự thấy và sự nghe của tôi cũng giống như tôn giảmặt trời, mặt trăng đó thuộc về đời này và cũng thuộc về đời sau nữa”. Tôn giả Ca Diếp lại hỏi : “Như điều đại vương trông thấy là cũng có ở đời sau nữa. Này đại vương, không nên chấp như quan điểm ở trước”. Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, như Sa môn, Bà la môn cho đến bậc Ứng cúng thế gian giải... nhờ trí tự thông rõ biết như thật đều biết chắc chắn rằng có nhân, có quả, có đời này, có đời sau. Này đại vương, không nên chấp về đoạn kiến như trước nữa”.

Khi ấy sự mê chấp của đại vương vẫn chưa tỉnh bảo tôn giả Ca Diếp rằng : “Nay ngài tại sao nói những lời như vậy ? Như ý của tôi thì thật khôngđời sau. Này Ca Diếp chớ lại gượng nói như vậy”. Tiếp theo tôn giả Ca Diếp đáp lại đại vương : “Thân của vua ngay lúc này là có hay không có ? Như thân này của vua mà có thì tại sao lại đoạn kiến cho rằng không có đời sau ? Vậy phải có ví dụ gì để chứng minh cho lý này ?”.

Ðại vương đáp : “Này tôn giả Ca Diếp, nay tôi có một ví dụ để chứng minh cho lý này là thân này có đời sau hay không”. Vua nói : “Này Ca Diếp, như người thân thuộc của tôi bị nhiễm tật bệnh triền miên đã lâu, gần lúc mạng chung bấy giờ tôi tới đó để hỏi thăm và bảo rằng : “Bệnh ngươi rất nặng chắc chắn là không thoát khỏi. Nếu có chết đi hãy trở về báo cho ta biết. Ta nghe Sa mônBà la môn trước kia có nói rằng nếu người nào phá giới, tạo nghiệp ác, sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục. Nếu như các Sa môn, Bà la môn kia nói mà đúng thì các ngươi là thân thuộc của ta, sau khi mạng chung chắc chắn phải đọa địa ngục. Vì sao ? Vì các thân thuộc của ta phá giới tạo tội, do đó nên biết chắc chắn phải rơi vào ác thú. Nếu ngươi ở ác thú hãy bảo sứ trở về hoặc chính mình trở về báo cho ta biết rằng nay tôi ở trong địa ngục thọ lãnh sự khổ cùng cực. Nếu ngươi trở về báo cho ta biết chắc chắn ta sẽ đến đó để cứu ngươi. Nhưng chỉ có người chết đi chớ chưa từng có người trở lại. Này Ca Diếp, như ý của tôi do ví dụ này nên biết chắc chắn không có đời sau”.

Tôn giả Ca Diếp đáp lại rằng : “Này đại vương, ví dụ này tuy rõ ràng nhưng chưa phải là lý thuyết chơn chánh. Nay tôi hỏi vua ví như có người vi phạm phép cấm của nhà vua bị rình bắt được đem đến chỗ vua tâu rằng : “Người này vi phạm tội như vầy, không dám che dấu”. Nhà vua nghe tâu như vậy liền ra lệnh cho trưởng quan Hữu ty hãy đem tội nhân này trói quặt hai tay ra sau, siết vào thân nó thật kỹ rồi dẫn ra ngã tư đường, chỗ đông người tụ hội, đánh trống tuyên bố rằng nay tội nhân này phạm tội như vậy, hỡi những người ở bốn bên Ðông, Tây, Nam, Bắc ở trong thành, theo lệnh của vua bảo cho các nơi biết rồi dẫn ra khỏi thành, cứ theo pháp mà xử trị. Như tội nhân này khi sắp đến pháp trường nói với người canh giữ rằng : “Xin hãy thương xót thả tôi ra một chút để tôi về nhà có đôi lời từ biệt với những người thân thuộc rồi tôi sẽ trở lại liền”. Này đại vương, đao phủ kia có dám thả người ấy ra một lát để y trở về nhà chăng ?”.

Vua đáp : “Không thả, thưa Ca Diếp. Giả sử người này có hết lời cầu khẩn thì người đao phủ ấy cũng không dám thả ra. Vì sao vậy ? Vì phép vua đã bó buộc thì không thể thả ra dù một phút”. Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, các thân thuộc của đại vương do vì tạo tội nghiệp cho nên sau khi mạng chung phải đọa trong địa ngục, vì tội nghiệp của họ nên mãi mãi phải thọ lãnh sự khổ sở. Các tội nhân này nói với ngục tốt rằng : “Xin hãy tạm thời thả cho họ trở về nhân gian đến chỗ vua để cầu xin vua cứu khổ”. Này đại vương, vậy ngục tốt này có chịu thả tội nhân ấy ra không ?”. Vua đáp : “Không thả”.

Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, họ là người đồng ở thế gian mà không chịu tạm thời thả tội nhân ra huống chi bà con của ngài tạo đủ điều ác ở trong địa ngục. Này đại vương, đừng đem ví dụ này để ví cho khôngđời sau. Sự chấp đoạn kiến này chẳng phải là chánh lý, cho nên biết rằng đã có đời hiện tại vậy phải có đời sau. Cho đến Sa môn Bà la môn, Ứng cúng, Thế gian giải nhờ trí tuệ tự thông, rõ biết sự thật. Vậy vua không nên chấp quan điểm như trước”. Vua lại đáp rằng : “Này tôn giả Ca Diếp, lời nói đó chẳng đúng, tâm của tôi chưa đồng ý, không thể lại nói rằng thật có đời sau”.

Tiếp theo tôn giả Ca Diếp bảo đại vương rằng : “Ý của vua như thế, vậy có ví dụ nào có thể chứng minh nữa chăng ?”. Vua đáp : “Nay tôi lại có một ví dụ về người thân có thể dùng để chứng minh. Này Ca Diếp, như người thân thuộc của tôi bị bệnh nặng sắp sửa mạng chung. Tôi đến dặn dò bảo người bệnh : “Tôi nghe Sa môn Bà la môn thường nói như vầy nếu người nào trì giới tu các thiện pháp, hoặc là bố thítam luân (người cho, người nhận và vật được cho) thanh tịnh, thấy người khác được điều thù thắng, không sanh lòng ganh tị. Người ấy khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Nếu lời nói của Sa mônBà la môn ấy mà đúng thì sau khi người mạng chung chắc chắn sanh về cõi trời. Vì sao ? Ta thấy ngươi thường đủ giới phẩmtu thiện pháp, tam luân thanh tịnh khi thực hành bố thí người cho, người nhận và vật bố thí đều được thanh tịnh, đối với việc thù thắng của người khác vẫn không sanh lòng ganh ghét. Do đó nên biết chắc chắn ngươi được sanh lên trời. Nếu được sanh lên trời ngươi hãy bảo sứ trở về, hoặc chính ngươi trở về để báo cho ta biết “nay tôi đã được sanh lên trời đó hưởng sự khoái lạc”. Này Ca Diếp, các người thân thuộc của tôi nếu thật đã sanh lên trời thì chắc chắn phải về báo cho tôi biết. Chứ tại sao người thân thuộc của tôi chỉ thấy chết mất, không hề trở lại báo cho tôi biết, do đó nên biết chắc chắn là không có đời sau”.

Tôn giả Ca Diếp bảo đại vương rằng : “Nay tôi cũng muốn nói một ví dụ để khiến cho vua được thấy thật có đời sau. Này đại vương, thí như có một hầm phân hôi thối không thể đến gần. Bấy giờ có một người lỡ rớt vào trong đó, hôi thối vô cùng nhưng nhờ phương tiện nên được thoát ra khỏi hầm xí. Khi thân đã ra khỏi hầm xí rồi liền dùng các thứ dầu thơm nấu nước tắm rửa, lại dùng hương bột để xoa vào thân. Khi thân kẻ ấy đã được thơm sạch, lại dùng y Ca Thi Ca tuyệt đẹp mặc vào và các ngọc báu, tràng hoa để trang nghiêm thân thể, rồi người ấy ở trong nhà để thọ hưởng sự khoái lạc. Này đại vương, ý vua thế nào ? Như vậy người ấy có lại muốn vào hầm xí ở trước nữa chăng ?”. Vua nói : “Không bao giờ, thưa ca Diếp. Cái hầm phẩn hôi thối ấy người kia rất ghê tởm”.

Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, người kia sanh lên trời cũng lại như vậy. Ðã được sanh lên trời rồi há lại muốn trở về lại nhân gian nữa sao ? Lại nữa này đại vương, ở nhân gian một trăm năm bằng ở Ðao lợi thiên một ngày một đêm. Người thân của đại vương tu các pháp thiện đã sanh lên cõi trời ngày đêm thọ hưởng sự vui sướng, há lại còn nghĩ trở lại để báo cho vua “tôi sanh ở cõi trời, ngày đêm hưởng sự vui sướng”. Này đại vương, ngài cùng người trời thọ mạng dài ngắn có giống nhau chăng ?”. Vua nói : “Không giống, thưa Ca Diếp”.

Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, cõi trời, cõi người vốn tự cách biệt, không nên như kẻ ngu mong được trở về báo cho biết, sau đó mới có thể tin là có đời sau. Này đại vương, chỉ có Sa môn Bà la môn, Ứng cúng, Thế gian giải mới có thể thật biết có đời sau. Có thể dùng tự trí rõ biết một cách như thật, không nên lại có quan niệm là không có đời sau”. Nhà vua nói với tôn giả Ca Diếp : “Như tôn giả nói cũng chưa đủ để tôi tin. Vì sao ? Ngài nói ở nhân gian 100 năm bằng ở Ðao lợi thiên một ngày một đêm, vậy có người nào đến nói với ngài là ở nhân gian một trăm năm bằng ở Ðao lợi thiên một ngày một đêm vậy ?”

Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Như chỗ thấy của vua thì giống như người mới sanh ra đã bị mù. Vì sao vậy ? Người mới sanh đã mù, tự mình không thấy sắc tướng màu xanh, vàng, đỏ, trắng, vật vi tế, thô ác, dài ngắn bèn nói rằng “vốn không có sắc tướng xanh, vàng, đỏ, trắng, vi tế, thô ác như vậy”; lại nói “ta cũng không biết, ta cũng không thấy”. Người mới sanh ra đã mù ấy vì đã không thấy mới chấp rằng vốn không có sắc tướng xanh, vàng, đỏ, trắng, cho đến dài ngắn... Này đại vương, đừng nên giống như người mới sanh đã mù kia chấp rằng không có sắc tướng”.

Nhà vua nói : “Này Ca Diếp, như ý của tôi nếu cõi trời kia mà thật có tôi liền nói có. Còn nếu quả thật là không tại sao bảo tôi nói là thật có. Lại nữa này Ca diếp, ngươi không phải là người thiện. Vì sao ? Sự thấy của tôi vốn chơn chánh, tại sao lại ví tôi với người sanh ra đã mù kia ? Này Ca Diếp, những điều ngươi nói về sanh lên trời... quả thật tôi không tin. Nếu tin lời ấy thì như ăn phải thuốc độc, như kiếm nhọn đâm vào thân, như leo lên núi mà ngã xuống, chỉ tự hại mạng mình mà thôi. Những điều xấu ác như vậy tôi đều xa lìa”.

Tiếp theo tôn giả Ca Diếp bảo đại vương : “Tôi nhớ đời xưa có một Bà la môn nhà cửa hết sức giàu có mà lại tuổi già chỉ có một người con trai tuổi mới mười sáu, mẹ nó đã chết. Bà la môn kia không thể ở cô độc, bèn tái giá. Thời gian chưa bao lâu thì người thiếp này lại có thai. Người thiếp chưa kịp sanh sản thì Bà la môn này mạng chung. Bấy giờ người con trai nói với bà kế mẫu rằng : “Tất cả những tài vật, vàng bạc châu báu cho đến tất cả những vật dụng trong nhà này đều thuộc về tôi, không có người nào khác có thể phân chia tài vật của tôi được”. Khi bà kế mẫu kia nghe người con trai nói xong liền bảo rằng : “Nay tôi đã mang di hài của cha cậu ở trong bụng. Hãy chờ nó lớn khôn thì chia cho nó một nữa”. Khi ấy người con trai kia lại nói những lời trên với kế mẫu. Người kế mẫu suy nghĩ : “Thằng nhỏ này tuổi còn thơ ấu, tánh tình dại khờ. Tuy đã nói với nó hết lời nhưng nó vẫn chưa thể hiểu rõ”. Lại do lòng tham tiếc cho nên muốn gấp thấy thân con trong bụng, dùng nhiều phương tiện để cho sanh nhanh. Do chưa đủ ngày tháng cho nên trở lại làm hư thai. Này đại vương, người đàn bà vì lòng tham lam tật đố cho nên trở lại làm hư bào thai của mình. Này đại vương, nay ngài vì ngu si nên mới khởi lên đoạn kiến ấy”.

Vua lại đáp rằng : “Này tôn giả Ca Diếp, chớ nói lời như ở trước “ai trì giới, tu thiệnthực hành bố thí, sau khi mạng chung được sanh lên trời, thọ mạng lâu dài, thường sống khoái lạc”. Tôi thật tình không tin như vậy. Nay tôi nếu tin vào lời Ca Diếp thì đó là ăn thuốc độc, đó là bị gươm nhọn đâm vào thân, là rơi từ núi cao xuống, chỉ tự hại mình mà thôi. Tại sao Ca Diếp vẫn đèo queo nói những lời như vậy ? Theo như ý của tôi chắc chắn không có người , không có đời sau, cũng không có hóa sanh”. Kế đó tôn giả Ca Diếp bảo đại vương rằng : “Há lại không còn ví dụ nào để chứng minh cho lời của ngài nữa sao ?”.

Vua đáp : “Này Ca Diếp, tôi lại có một ví dụ để chứng minh để chứng minh việc này, để biết là không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh. Này Ca Diếp, như bà con thân thuộc của tôi khi bị bệnh nặng, tôi liền đến đó an ủi, hỏi thăm. Khi người ấy chưa chết thì còn nói chuyện với tôi về sự khổ não của y, đến khi chết rồi thì không có nói với tôi sự khổ não nữa. Do đó có thể biết rằng chắc chắn không có đời sau, cũng không có hóa sanh”.

Tôn giả Ca Diếp bảo rằng : “Tôi nhớ ngày xưa có một tụ lạc, nhân dân trong đó không biết tiếng (tù và) ốc, cũng lại chưa từng nghe tiếng tù và bao giờ. Bỗng nhiên có một người từ ngoài đi đến dừng chân ở tụ lạc này. Người nầy thường cầm một vỏ ốc để làm công việc. Mỗi ngày cầm tù và lên, đi đến chỗ tượng thánh thổi lên để cúng dường, cúng dường xong trở về trú xứ. Bấy giờ tất cả nhân dân trong tụ lạc bỗng nhiên nghe tiếng tù và này thảy đều kinh hoàng, cùng nhau bảo rằng : “Ðó là tiếng gì vậy ? Bọn chúng ta chưa hề nghe tiếng này”. Này đại vương, khi ấy tất cả nhân dân trong tụ lạc cùng đến chỗ tiếng tù và hỏi tù và kia : “Ngươi từ đâu đến, phải nói sự thật, nếu nói không đúng sự thật, chúng ta sẽ đập phá ngươi”. Tù và biết ý của chúng ta phải nói gấp lý do. Này đại vương, các dân chúng kia đối với hình tướng vỏ ốc và tiếng tù và, họ vốn chưa từng thấy, cũng chưa từng nghe, muốn bảo cái vỏ ốc đó hỏi đáp cùng họ. Vỏ ốc đã là vật vô tình há có thể trả lời được sao ? Vì sao vậy ? Nó cũng như đại vương muốn nói chuyện với người đã chết. Người đã chết rồi há có thể nói lại được sao ? Ðại vương không nên chấp quan điểm như vậy, cho rằng không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh”.

Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Có Sa môn Bà la môn có đầy đủ thiên nhãn, dùng thiên nhãn thanh tịnh đều thấy rõ con người chết ở đây, sanh ở kia, thọ thân hình đẹp hay xấu, đoan chánh hay xú lậu, hoặc được sanh lên trời hay đọa vào ác thú. Này đại vương, những việc như vậy đều có thể chứng minh được cả. Vậy không nên nói không có đời sau, cũng không có hóa sanh”. Vua nói : “Này Ca Diếp, tuy ngài nói ví dụ như vậy nhưng tôi vẫn không tin. Theo quan điểm của tôi thì chắc chắn không có người, cũng không có hóa sanh và không có đời sau”.

Tiếp theo tôn giả Ca Diếp bảo đại vương : “Nếu là như vậy, vua lại có ví dụ gì để chứng minh rằng không có người, cũng không có đời sau và không có hóa sanh chăng ?”. Vua đáp : “Thí như quan lại chấp pháp sửa trị con người, đến khi lên chức, tự mình vi phạm những luật cấm, sau đó bị hạch hỏi, tấu trình lên vua mọi việc. Vua đều biết rõ nên ra lệnh quan Pháp ti dẫn tội nhân đi, cứ y theo pháp luậtxử đoán. Vua lại ra lệnh hãy trói hai tay tội nhân lại, đem đến pháp trường để trừng trị thật đau khổ. Hãy lấy dây trói lại, tùy theo tội nặng hay nhẹ mà lột da, xé thịt rồi treo ở một chỗ khác. Người ấy khi còn sống thì biết khổ đau, nếu đã chết rồi thì không còn hơi thở nữa. Lại nữa, kẻ tội nhân ấy lúc chưa chết thì thân thể mềm mại, nhưng khi chết rồi thì thân thể cứng đờ. Cho đến việc nhẹ lúc còn sống, nặng lúc đã chết khác nhau. Này tôn giả, do đó mà biết chắc chắn không có đời sau, cũng không có người, cũng lại không có sự hóa sanh chi cả”.

Tôn giả Ca Diếp lại bảo : “Này đại vương, ý ngài thế nào ? Ví như cục sắt cũng có nhẹ nặng, mềm cứng khác nhau thì sao ? Khi sắt nóng thì hình thể nhẹ mà mềm. Sau đó để sắt nguội thì hình thể nặng mà cứng. Này đại vương, loài hữu tình hay vô tình đều bẩm sanh từ tứ đại, do tứ đại ấy mà có sự hợp hay tán, do đó mà có sai khác mềm cứng, lạnh nóng vậy. Ðừng nên đem lý này để so sánh với đời sau và sự hóa sanh ... Ðại vương nên biết thật có Sa môn Bà la môn kia có đầy đủ thiên nhãn thấy các chúng sanh chết ở đây sanh ở kia, cho đến được đoan chánh hay bị xấu xí, hoặc sanh ở trên trời hay đọa vào đường ác, họ đều có thể chứng biết thật có đời sau và có hóa sanh”. Vua nói : “Thưa tôn giả, như lời ngài nói chưa đủ để vững tin. Theo ý tôi quả thật không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh”.

 

HẾT QUYỂN THƯỢNG.


 

 

 

 

PHẬT NÓI KINH VUA ÐẠI CHÁNH CÚ

QUYỂN HẠ

Tiếp theo tôn giả Ca Diếp bảo đại vương : “Vậy chớ ngài còn có ví dụ nào nữa để chứng minh là không có người và không có đời sau, cũng không có hóa sanh ?”. Vua đáp : “Tôi lại có một ví dụ có thể chứng minh cho lý của tôi. Này tôn giả, ví như có người phạm tội rất nặng. Quan cận thần biết được liền tâu với vua nay có người này phạm tội rất nặng. Nhà vua biết được liền ra lệnh cho quan theo dõi bắt trói tội nhân, theo pháp luậtxử trị. Quan Pháp ti vâng lệnh của vua liền dẫn tội nhân đi, trói chặt hai tay, bỏ vào trong cái vạc mà nấu, mà đốt. Vua lại ra lệnh hãy nấu cho thật nhừ, lòi xương ra, rồi lấy cây dò trong cái vạc thật kỹ để tìm xem kẻ ấy có đời sauhóa sanh ... ra vào không ? Quan pháp ti vâng lệnh tuyệt đối của vua, nấu tội nhân cho đến lúc thịt chín nhừ rồi tìm thật kỹ trong vạc. Cuối cùng không thấy có đời sau của con ngườihóa sanh... ra vào chi cả. Cho đến lần lượt tìm kiếm nhiều lần vẫn chẳng thấy gì”. Vua nói : “Này tôn giả, do ví dụ đó mà biết quả thật không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh”.

Bấy giờ tôn giả Ca Diếp bảo với đại vương : “Này đại vương, thí như có người trong khi ngủ nghỉ mộng thấy một khu vườn tuyệt đẹp. Trong vườn có nhiều cây, hoa quả sầm uất, ao nước trong vắt. Người ấy ở trong giấc mộng hết sức ưa thích. Này đại vương, cái vườn ấy là có thật chăng ? Vã lại sự xem chơi, thưởng ngoạn và người ấy đi ra đi vào trong khu vườn ấy có thật chăng ?”. Vua đáp : “Không có thật, thưa Ca diếp. Như những điều thấy trong giấc mộng đều chẳng phải là chơn thật”.

Tôn giả Ca Diếp nói : “Cũng như sự chấp trước về đoạn kiến của đại vương cũng chẳng phải là chơn thật. Này đại vương, cần phải thật lòng biết rõ là thật có người, có đời sau, có hóa sanh, cho đến thật có Sa môn Bà la môn có đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, vượt hơn thế gian, thấy các chúng sanh chết ở đây, sanh ở kia, đoan chánh hay xấu xí, hoặc được sanh lên trời hay bị đọa vào địa ngục. Ðó là sự chơn thật không nên lại chấp đoạn kiến như ở trước”.

Vua nói : “Này tôn giả, tại sao ngài cứ luôn luôn nói những điều như vậy ? Theo ý tôi biết chắc chắn là không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh”. Kế đó tôn giả Ca Diếp nói với đại vương : “Ngài lại có ví dụ nào để chứng minh là không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh ?”.

Vua bảo : “Này tôn giả, tôi lại có một ví dụ để chứng minh cho lý của tôi. Thí như có người chấp hành việc của vua, nhưng tự vì phạm những điều lệ. Quan cận thần tâu hết sự vi phạm ấy cho vua nghe. Vua biết tất cả sự việc, ra lệnh cho quan Pháp ti tra hỏi cho ra sự thật. Khi tội nhân đã nhận tội thì hãy dùng hình phạt để trị. Vua ra lệnh trước tiên là cắt da thịt, sau đó bứt gân, mạch, chặt xương, đập tủy để tìm kiếm (linh hồn) người ấy và kẻ hóa sanh. Quan Pháp ti vâng lệnh vua, cứ theo pháp luậtthi hành, như lời vua bảo không dám trái lệnh, nhất nhất theo thứ lớp xẻ da, cắt thịt cho đến gân mạch, xương, tủy ở bên trong thân thể tội nhân để tìm kiếm (linh hồn) con người hóa sanh... Từ đầu đến cuối hoàn toàn không thấy có (linh hồn) của con ngườihóa sanh gì cả. Này tôn giả, cứ lấy ví dụ này mà biết thì quả thật không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh”.

Tôn giả Ca Diếp bảo : “Này đại vương, tôi nhớ thời xưa có một đạo nhân sống ở trong núi. Bấy giờ có một đoàn khác buôn đem theo nhiều xe cộ, chở nhiều của cải, đến gần am của đạo nhân dừng chân ngủ qua đêm rồi bỏ đi. Khi ấy vị đạo nhân kia vào lúc sáng sớm đi đến xem chỗ các người khách buôn ngủ đêm qua, sợ còn bỏ sót tài vật gì chăng. Quả nhiên ở đó có thấy có một đứa bé mới bỏ bú, chưa biết gì cả, bị các khách buôn bỏ sót lại. Ðạo nhân thương xót, sợ đứa bé kia đói khát mà chết, bèn đem về trong am nuôi dưỡng nó như người thân. Nhưng vị đạo nhân này là người thờ lửa, luôn luôn chuyên tâm bỏ thêm củi vào đống lửa, cho nên lửa trong nhà ông chưa bao giờ bị tắt. Cậu bé ấy ngày qua tháng lại, dần dần lớn khôn, tuổi đã được 15, 16 rồi. Ðạo nhân suy nghĩ : “Cậu bé đã lớn khôn, ta hoàn toàn có thể giao phó công việc cho nó được”. Một ngày nọ, đạo nhân vì có việc nên phải vào thành, tạm thời phải đi xa am của ông. Ông bảo cậu bé : “Ta có công việc nên tạm thời phải xa am. Lửa trong am hãy như ta mỗi ngày bỏ thêm củi liên tục vào đừng để cho nó tắt”. Nói xong ông liền ra đi. Ðạo nhân đã đi khỏi, cậu bé dại khờ nên ham chơi, do ham chơi cho nên quên thờ lửa, vì không bỏ củi liên tục vào đống lửa nên làm lửa tắt. Bấy giờ cậu bé thấy lửa đã tắt liền lượm hết củi chất vào lò rồi cầu nguyện rằng : “Này lửa hãy mau xuất hiện. Nếu lửa không xuất hiện ta sẽ hủy hoại ngươi”.

Cậu bé ấy đã khổ sở cầu xin nhưng cuối cùng lửa vẫn không cháy. Do lửa không cháy cho nên nó lại phát ra lời nói ác rằng : “Nếu lửa không xuất hiện, ta sẽ đánh ngươi”. Khi ấy cậu bé mong có lửa mà lửa vẫn không hiện, nên trong lòng rất lo sợ là nếu đạo nhân trở về, chắc chắn sẽ đánh ta. Nó đứng ở một chỗ để suy nghĩ đến lửa.

Công việc đã xong xuôi, đạo nhân lại trở về trong am, thấy cậu bé ngồi im lặng, ông liền biết là lửa đã tắt. Ông bảo thằng bé : “Người ham phóng dật đến nỗi để lửa tắt sao ?”. Ðồng tử thưa : “Con vừa quên một chút thì lửa đã tắt rồi. Sau khi lửa tắt, con chất củi vào trong lò, con dùng lời thiện lời ác để cầu đảo nhưng lửa vẫn không xuất hiện”. Ðạo nhân nói : “Ngươi thật là ngu si, nếu lửa đã tắt muốn có lửa là phải đốt lửa. Ta chưa từng nghe ai nói là cứ chất củi vào trong lò lạnh mà có lửa xuất hiện bao giờ. Giả sử ngươi cứ chất thật nhiều củi ở trong lò rồi dùng nhiều phương tiện (để mong có lửa) thì chỉ tự mình chuốc lấy khổ sở chứ không thể làm vậy mà có lửa được”. Này đại vương, cũng như đứa bé, sau khi lửa tắt rồi, tìm lửa trong tro thì sự ngu mê, sự không tỉnh ngộ của đại vương cũng vậy. Ðối với cái thây chết mà tìm cầu con người (thần thức) và kẻ hóa sanh, rồi vọng chấp cho là không có thần thức nên khởi ra đoạn kiến”.

Vua nói : “Này tôn giả, chớ nói lời như vậy. Nếu tôi theo lời ngài mà nói rằng có đời sau chắc chắn tôi sẽ bị người ta dị nghị. Vì sao vậy ? Nay đây mọi người sẽ nói như vầy “Từ xưa nhà vua vốn không tin nhân quả, thường nói lời như vầy không có đời sau, không có thần hồn, cũng không có hóa sanh”. Ngày nay nhà vua lại bị Ca Diếp cảm hóa”.

Tôn giả Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, tôi nhớ thuở trước có hai người thương chủ, họ đều có tiền tài châu báu hơn cả một nước. Về sau có một lúc họ giao ước kết nghĩa làm bạn với nhau đồng đi đến một nước khác, đem hàng hóa để buôn bán cầu lợi. Hai người thương chủ ấy mỗi người tập họp một số thương nhân để làm bạn lữ. Bấy giờ mọi người đều chuẩn bị xe cộ, bố trí xe ngựa cùng một ngày thì lên đường. Ði đến đoạn đường phía trước cách nước đã xa, ở gần nơi gian nan hiểm trở. Một người thương chủ thì biết rõ con đường này ở phía trước có sự nguy hiểm, bảo thương chủ kia rằng : “Nay ngươi biết không con đường ở phía trước rất nguy hiểm, không có người, không có khói lửa chi cả. Vậy tất cả thương nhân phải chuẩn bị cho đầy đủ vật dụng”.

Hai thương chủ đã luận bàn xong, một thương chủ đi trước, nghĩ : “Ðoàn mình ít người nên nhu cầu cũng ít. Tất cả vật dụng, lúa mì, đồ ẩm thực cho đến củi để đốt cũng đều vứt đi sạch”. Kế tiếp đi đến trước bỗng gặp một người đi ngược chiều, thân hình to lớn, da đen, hai mắt đỏ ngầu, đầu tóc bờm chờm, áo quần rách rưới, cỡi trên một chiếc xe lừa kéo, hình dáng như con quỷ. Thương chủ hỏi người ấy : “Này nhân giả, con đường phía trước có đồ ăn thức uống và củi đốt ... chứ ?” Người kia trả lời : “Con đường ở phía trước có rất nhiều đồ ẩm thực, củi đốt các thứ không thiếu thứ gì. Những thứ ấy ngươi có chở trên xe thì hãy nên vứt tất cả đi, chỉ làm cho nặng nề làm chậm chạp bước đường trước mặt mà thôi”. Khi ấy thương chủ nghe lời nói ấy rồi, bảo các thương nhân : “Tất cả chúng ta đều nghe nói rằng đồ ăn, thức uống các thứ ở con đường phía trước chẳng thiếu thứ gì. Ðâu cần mang những thứ ấy trên xe ngựa cho vướng bận”.

thương chủ và các đồng bạn đều là những người không có trí tuệ, liền vứt bỏ những vật dụng cần thiết rồi đi. Họ đi ngày thứ nhất cho đến mặt trời lặn chỉ gặp toàn là đồng không mông quạnh, không gặp người hay khói lửa chi cả, nhìn bốn bên đều trống vắng chẳng có gì để cung cấp, đồ ăn thức uống bị thiếu hụt, tất cả đều bị đói khát. Họ chịu sự đói khổ suốt đêm, rồi lại ráng đi tới nữa. Bước sang ngày thứ hai cũng đi tới tối chỉ toàn là đồng vắng chẳng thấy gì cả. Các khách buôn cùng nhau luận bàn : “Cái người chúng ta gặp ở trước đây, xem xét tướng mạo nhất định biết nó là con quỷ rồi. Vì chúng ta không có trí tuệ mới tin lời nó như vậy. Do thứ yêu tinh dối gạt, chúng ta đến nỗi này. Cho đến ngày thứ ba cả người lẫn ngựa đều thiếu lương thực và nước uống nên không thể đi được nữa. Họ nhìn nhau chẳng nói lời nào, chỉ chờ chết mà thôi. Còn vị thương chủ kia qua ngày hôm sau mới lên đường, cũng gặp người ở trước ngược đường mà đến, mới hỏi : “Con đường ở phía trước có đồ ẩm thực và các thứ cần thiết không ?”. Người ấy cũng như trước, mỗi mỗi đều nói láo là đồ nhu cầu ẩm thực chẳng thiếu thứ gì, cần gì chở các thứ ấy trên xe, trên ngựa làm gì cho nặng. Các ngươi nên biết hãy vứt bỏ các thứ ấy đi”.

Người thương chủ sau là bậc thông minh trí tuệ, hễ làm điều gì trước hết ông đều suy nghĩ cẩn thận. Ông vốn biết con đường này có vùng đồng không mông quạnh to lớn rất nguy hiểm, qua vùng đất nguy hiểm này đâu thể đi mau. Ông lại quán sát người nói chuyện với ông sắc mặt khác thường, hành vi thô ác, nên ông sợ đây có thể là yêu tinh nói láo không nên tin tưởng. Ông cùng các thương nhân luận bàn với nhau xong rồi tiến hành. Ðến ngày thứ ba bỗng thấy trên đường thương chủ và các thương nhân ở trước bị đói khát cùng quẩn. Hỏi lý do tại sao thì đó cũng chính là do gặp con yêu tinh xấu ác ấy và nghe lời dối gạt của nó. Các thương nhân cùng nhau luận bàn, liền đem phần lương thực của mình chia xẻ cho đoàn trước để cứu giúp họ, để các thương nhân kia đồng vượt qua được con đường hiểm trở.

Này đại vương, một vị thương chủ kia vì ngu si nên mới tin lời yêu tinh dối gạt, đi đến con đường hiểm mà thọ lãnh sự khổ não cùng cực. Này đại vương, do ngu si cho nên mới chấp đoạn kiến chắc chắn ngài sẽ mãi mãi phải chịu khổ não cùng cực.

Khi ấy đại vương nghe lời nói ấy rồi bảo tôn giả rằng : “Thôi đừng dẫn ví dụ nữa, tâm tôi không có hồi tỉnh đâu. Vì sao như vậy ? Vì sợ người trong nước gọi tôi là người bất định. Họ bảo : “Ðại vương Chánh Cú thường nói như vậy thật không có người, không có hóa sanh cũng không có đời sau. Nay trở lại bị Ca Diếp cảm hóa”. Do đó cho nên tôi nay không thể thay đổi quan điểm ở trước của tôi”.

Bấy giờ tôn giả Ca Diếp lại bảo vua : “Xưa có hai người có chút ít tài sản. Họ kết bạn với nhau để kinh doanh. Tiền bạc của cải kiếm được tuy khác nhau nhưng nếu có lợi hãy báo cho nhau biết. Ký kết giao kèo đã xong, Chọn ngày mà thi hành. Khoảng mấy ngày đường, họ liền đến một nước khác, đất ở đó có rất nhiều cây gai, bỏ tiêàn ra mua sẽ có lãi. Hai người bàn luận đã xong liền bỏ tiền ra để mua. Họ cột lại gọn gàng rồi gánh mà đi. Họ nói với nhau rằng : “Ðến nước khác hễ có lợi thì bán”. Họ đến phía trước vào một nước khác, họ thấy chỉ gai được lời gấp bội, có thể bỏ cây gai để lấy chỉ gai này. Một người có trí tìm người bán cây gai để mua chỉ gai. Còn người kia không có trí nói với bạn đồng hành : “Tôi không thể đổi cây gai để lấy chỉ gai. Vì sao ? Vì cây gai mà tôi gánh, tôi đã ra công cột rất chặt, gánh từ xa đến đây cho nên thật tình tôi không thể đổi nó để lấy thứ khác được”. Ngày hôm đó, hai người đều gánh hàng hóa của mình. Họ tiếp tục đi tới, lại đến một nước có rất nhiều sợi tơ có lợi hơn chỉ gai. Người có trí liền bán chỉ gai để lấy sợi tơ, còn người không trí lại nói như trên :”Tôi không thể đổi cây gai để lấy sợi tơ cho có lợi”. Hai người mang hàng hóa của mình lại đi đến trước. Vào một nước có vải lụa rất rẻ, có lợi hơn tơ rất nhiều. Người có trí thấy lợi gấp bội, liền đổi tơ để lấy vải lụa. Còn người không có trí vì tiếc cây gai đã mang từ xa đến nên không chịu đổi. Hai người mang hàng hóa của mình lại đi đến trước vào một trong nước (chỉ có khanh trị) bạc thì ít mà giá trị hơn lụa rất nhiều, nếu đổi lụa lấy bạc thì lợi gấp trăm lần. Người có trí thì bán lụa mua bạc thu được lợi gấp trăm lần. Còn người không có trí thì cho rằng : “Tuy gai này không đáng giá là bao nhưng vì tiếc công cho nên không chịu đổi”. Người có trí lại nghe người ta nói ở nước kia chỉ sản xuất vàng, tuyệt đối không có bạc, liền bảo với bạn rằng chúng ta hãy đến nước kia. Chẳng bao lâu họ đến nước kia. Khi ấy người có trí liền bán bạc để mua vàng ròng. Khi mua được vàng rồi, anh ta ngắm nghía nó vui mừng. Anh tự kể rằng : “Ngày xưa ta bỏ nhàtiền của có quá ít. Ban đầu ta mua cây gai cho là đã có lợi lớn, nhưng không ngờ đến nay gặp được vàng ròng, thế gian quý trọng nó không có gì bằng. Ta sẽ đem nó về quê nhà, ta sẽ giàu to”. Anh liền gọi bạn : “Thời gian đã lâu rồi, vậy chúng ta hãy cùng nhau về nước mình, tùy theo của cải của mình mà cứu giúp cho bà con quyến thuộc”. Khi ấy người gánh cây gai bảo với bạn đồng hành rằng : “Tôi đã mua cây gai này những mong được lợi lớn, nào ngờ đến đây mới hay chẳng lợi bao nhiêu. Nay anh muốn trở về tôi đâu dám cản. Vậy ta hãy gồng gánh cùng nhau trở về nhà. Nếu gặp giá cao tùy chỗ sẽ bán”. Luận bàn xong rồi chọn ngày trở về đường cũ. Khi về gần đến nước, những người thân tộc được tin cả nhà đều ra ngoài thành để đón tiếp. Họ sung sướng vô cùng đều trở về nhà. Nhà có người được vàng, khi cha mẹ vợ con hỏi được lợi gì. Gia chủ đáp được vàng, chúng ta có thể giàu có, cho đến người trong thân quyến cũng đều được trợ cấp. Còn người gánh gai thì người nhà cũng hỏi : “Từ lúc kinh doanh anh được lợi gì ?”. Người ấy đáp chỉ được cây gai này chớ chẳng được vật gì khác. Cả nhà nghe xong buồn rầu áo não, bảo người ấy rằng : “Như sự kinh doanh của ngươi thì toàn thể gia quyến của chúng ta vẫn cứ bần khổ mãi mà thôi”.

Này đại vương, người gánh cây gai ấy do tánh cố chấp ngu mê, tuy thấy vàng thiệt mà vẫn không chịu đổi cho đến nỗi thân quyến cứ mãi mãi chịu khổ não. Cũng giống như đại vương không tự hay biết mà chấp đoạn kiến, cứ mãi mãi chịu lấy khổ đau, về sau hối hận cũng không kịp nữa.

Nhà vua nghe lời ấy rồi nói với tôn giả rằng : “Ý của tôi không thay đổi là có lý do. Bởi người trong nước này đều biết quan điểm của tôi rồi. Nếu tôi bỏ quan điểm của mình thì người trong nước cùng nhau bàn luận : “Ðại vương Chánh Cú thường nói không có người, không có đời sau, cũng không có hóa sanh. Ngày nay trở lại bị Ca Diếp cảm hóa”. Tôi nhất định không thể chịu sự sĩ nhục này”.

Tôn giả Ca Diếp bảo : “Này đại vương, tôi nhớ ngày xưa có một người không biết luật lệ, nuôi các con heo kiếm lợi để sinh sống. Anh ta bỗng một hôm đến xứ khác, thấy phân thối rất nhiều, liền hốt lấy, đội trên đầu, muốn mang về nhà cho heo ăn. Bất thần nữa đường gặp trời mưa, nước phân chảy thối cả người, trong lòng liền hối hận. Này đại vương, người không biết luật ấy bị mọi người khinh chê, chờ cho thân thể bị hôi thối rồi mới chịu hồi tâm. Vua là người ở địa vị tôn quý trở lại coi trọng những lời nói phù phiếm rồi chuyên chấp chặt trong tâm mà không xả bỏ đoạn kiến”. Bấy giờ tôn giả Ca Diếp lại nói : “Này đại vương, trước đây tôi đã khéo nói các thí dụ muốn làm cho đại vương xả bỏ đoạn kiến, biết có đời sau và đặt niềm tin nơi Tam bảo. Vọng chấp của đại vương là cố chống đối lại tôi. Nay tôi lại vì đại vương nói thêm một ví dụ nữa. Nếu ngài tin được thì hãy lắng nghe, thọ trì kỹ, khéo nhớ nghĩ”. Vua nói : “Này tôn giả, xin ngài hãy nói cho tôi nghe”.

Bấy giờ tôn giả Ca Diếp nói với đại vương rằng : “Tôi nhớ thuở xưa có một con heo tên là Ðại Phúc. Khi ấy Ðại Phúc dẫn một bầy heo đi vào núi sâu. Khi vào trong núi bỗng gặp con sư tử. Sư tử thấy con heo bảo với nó : “Ta là vua các loài thú, ngươi mau tránh đường cho ta đi”. Con Ðại Phúc đáp : “Nay ta tránh đường cho ngươi đi, việc này không thể được”.

Sư tử nói : “Vậy hãy chiến đấu với ta chứ không được trái lệnh”. Heo nói : “Chờ ta một chút để ta mặc áo giáp”. Khi ấy con sư tử nói : “Tên người là gì. Ngươi đâu có phải là dòng dõi cao thượng mà dám chiến đấu với ta như vậy ? Hãy mặc áo giáp đi và tùy ý ngươi”. Khi ấy con Ðại Phúc đi vào trong hầm phân, lăn phân đầy mình rồi trở lại trước mặt con sư tử nói : “Ta chiến đấu với ngươi”. Bấy giờ con sư tử bảo con Ðại Phúc : “Ta là vua trong loài thú, thường bắt các con hươu nai để ăn thịt. Còn đối với các con vật ốm yếu thì ta tha không ăn. Huống chi thân ngươi dơ nhớp, hôi thối. Nếu ta chiến đấu cùng ngươi chỉ làm nhiễm ô cho ta mà thôi”. Bấy giờ sư tử nói với con Ðại Phúc bằng bài kệ :

Thân người vốn bất tịnh.

Nay lại càng hôi thối.

Ý ngươi muốn chiến đấu.

Chỉ làm ta hôi thối.

Tôn giả Ca Diếp lại bảo đại vương : “Kiến chấp của nhà vua giống như con heo đòi chiến đấu với con sư tử vậy. Ta như con sư tử trước tiên vì ngươi mà ta bận tâm”. Bấy giờ vua Chánh Cú nghe tôn giả Ca Diếp nói lời ấy xong, trong thâm tâm xấu hổ, hối hận nói với Ca Diếp rằng : “Thưa tôn giả, ngay từ lúc đầu nghe tôn giả ví dụ mặt trời, mặt trăng, tôi liền tín phục. Nhưng chỉ vì muốn nghe về sự biện tài trí tuệ của tôn giả cho nên tôi mới tráo trở để nghe ngài tuyên nói. Cúi mong tôn giả xét sự thành tâm của tôi, biết sự tín phục của tôi. Tôi xin thề nguyện quy y tôn giả Ca Diếp”.

Tôn giả Ca Diếp trả lời : “Chớ có quy y tôi. Chỗ tôi quy y đó là Phật, Pháp, Tăng. Vua hãy theo đó mà quy y”. Vua lại nói : “Theo lời dạy của tôn giả tôi xin quy y Phật, Pháp, Tăng thọ giới cận sự. Từ nay về sau thề không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối và không còn uống rượu nữa cho đến lúc mạng chung xin giữ tịnh giới của Phật”.

Bấy giờ đại vương đã thọ nhận sự hóa đạo xong, thành tâm hướng về đức Phật thọ ba tự quy, vĩnh viễn phụng hành năm giới, cùng Bà la môn, trưởng giả ... hoan hỷ hân hoan lễ bái rồi lui ra.

 

HẾT QUYỂN HẠ


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27128)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21748)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22218)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23597)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20394)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20038)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21929)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18956)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24697)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30948)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23956)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27748)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26494)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23198)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38087)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18420)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19924)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19013)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23127)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23862)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22774)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29554)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20623)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18684)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15827)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19634)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20137)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19927)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18101)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22902)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16405)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18811)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26836)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20652)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26229)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19810)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24648)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29990)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20201)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20391)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15819)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19820)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant