Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Na Luật, Bát Niệm

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12263)
Kinh A Na Luật, Bát Niệm


PHẬT NÓI KINH A NA LUẬT, BÁT NIỆM


Đại Chánh Tân Tu số 0046 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu hán, Tam tạng Pháp sư Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở dưới cây Cầu sư, núi Thệ Chi. Hiền giả A na luật ngồi thiền bên bờ đầm vắng, tư duy : “Ðạo pháp là thiểu dục. Ða dục không phải là đạo pháp. Ðạo pháp là tri túc. Không nhàm chán, không phải là đạo. Ở ẩnđạo pháp, ưa thích đồ chúng không phải là đạo. Tinh tấnđạo pháp, giải đãi không phải là đạo. Kiềm chế tâm là đạo pháp, phóng đảng không phải là đạo pháp. Ðịnh ý là đạo pháp, nghĩ nhiều không phải là đạo. Trí tuệđạo pháp, ngu ám không phải là đạo”.

Ðức Phật dùng tâm thánh biết rõ ý của tôn giả. Thí như lực sĩ co duỗi cánh tay, liền bay đến trước tôn giả khen rằng :

–Lành thay ! Lành thay ! Này A na luật. Những điều mà ngươi suy niệm chính là điều mà bậc đại sĩ suy niệm. Hãy lắng nghe ta nói tám điều suy niệm của bậc đại sĩ, hãy khéo suy nghĩthực hành. Hãy nên học Tứ thiền, kiểm soát ý, quán sát, không bỏ nữa chừng, chắc chắn được đại lợi, không mất chí nguyện. Sao gọi là Tứ thiền ? Ðó là xả bỏ pháp dục ác, bất thiện, ý được hoan hỷNhất thiền hạnh. Nhờ xả niệm ác, chuyên tâm một cảnh, không cần hoan hỷNhị thiền hạnh. Hoan hỷ đã chấm dứt, chỉ như pháp quán, rõ thấy khổ vui là Tam thiền hạnh. Ðã bỏ khổ vui, lo mừng đều đoạn mà an trụ thanh tịnhTứ thiền hạnh. Ðã học như vậy rồi, sau đó thực hành tám điều suy niệm của bậc đại nhân. Tứ thiềnphương pháp kiểm soát ý, ưa thấy nơi hành được lợi nguyện nhanh, không bỏ cuộc nữa chừng. Vã lại, người thiểu dục thí như vua có cận thần, chủ các rương hòm chứa đầy y phục đẹp, nhưng vua lại thích mặc đồ cũ, thiểu dục tri túc, ở ẩn, tinh tấn, chí tâm, định ý, trí tuệ, bỏ gia đình, không vui chơi, ngạo mạn, không có sai lầm, chắc chắn đó là người an ổn, đi đến cửa Nê hoàn. Ðó là tám điều suy nghĩ của bậc đại nhân.

Nhưng Tứ thiền để kiểm soát ý, quán sát, nghĩa của nó như nhà vua có cận thần trông coi việc nấu nướng, điều chế năm vị, nhưng vua lại ưa thích việc đi khất thực, mục đích để nuôi thân, không mong hưởng thụ. Ý nghĩa của nó như nhà vua có lầu các để trông xem, nhưng tự vui thích núi đầm rừng cây, chỗ yên tịnh, tinh tấn vô dục đối với thế gian. Ý nghĩa như nhà vua có cận thần, chủ các thứ thuốc hay và lạc, tô, đề hồ, thạch, mật, nhưng vua lúc có bệnh dùng nước tiểu tiện để được trừ bỏ khổ não. Nhờ thực hành tám suy niệm, tư duy tứ thiền, tinh tấn không thiếu sót, tâm không sai lầm, chắc chắn tự mình an ổn, đi tới cửa Nê hoàn.

Ðức Phật nói như vậy xong, liền trở về Thệ Chi, bảo các đệ tử : “Ðạo thì phải thiểu dục, không được đa dục. Ðạo thì phải tri túc, không được chứa nhóm cho dư. Ðạo thì phải phải ở chỗ yên tịnh, không nên ưa thích hội chúng. Ðạo thì phải tinh tấn, không được giải đãi. Ðạo thì phải kiềm chế tâm, không đượcphóng dật. Ðạo thì phải định ý, không được loạn ý. Ðạo thì phải có trí tuệ, không được ngu ám. Tỳ kheo phải lấy sự thiểu dục làm vui thích. Ðó là thân tự thiểu dục, nhưng đừng để người biết mình thiểu dục. Ý nghĩa như vậy mới đúng.

Tỳ kheo tri túc đó là bình bát, y phục, giường chõng, thuốc men chửa bệnh, các thứ đủ dùng thì thôi, đừng nên chứa nhóm cho dư. Ý nghĩa như vậy mới đúng. Tỳ kheo ở ẩn, đó là tránh người thế gian, không nhập vào chúng hội, ở xa nơi núi đầm, hang đá, gốc cây. Như có tứ chúng hoặc vua, đại thần đến để hỏi đạo thì hãy nói pháp thanh tịnh cho họ nghe, xong rồi đi liền. Thí như kẻ nghèo mắc nợ người giàu có, bị chủ lôi kéo, kẻ ấy muốn xa lìa, không thích ở ẩn xa lìa mọi người. Như vậy mới đúng nghĩa. Tỳ kheo tinh tấn là đoạn trừ điều phi pháp, siêng năng thực hành kinh đạo, chưa hề giải đãi. Ðầu đêm, nữa đêm, cuối đêm kinh hành, ngồi hay nằm, thường giác ngộ tâm ý, nhớ nghĩ điều thanh tịnh để trừ ngũ cái. Như vậy mới đúng nghĩa. Tỳ kheo kiềm chế tâm là bỏ dục, ác pháp, ngồi định ý, tư duy, quán tưởng để đoạn trừ khổ, lạc được tứ thiền hạnh. Như vậy là đúng nghĩa. Tỳ kheo định ý là thường nhất tâm quán thân, quán ý, không bị hành động sai khiến, nhiếp niệm theo đạo, bỏ tưởng ngu si não hại. Như vậy là đúng nghĩa. Tỳ kheo trí huệ đó là biết Tứ đế : khổ, tập, tận, đạo. Sao gọi là Khổ đế ? Ðó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ưu bi não khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng tội khổ, sở dục bất đắc khổ. Tóm lại ngũ thạnh ấm là khổ. “Sanh khổ” là con người tùy theo hành động dẫn dắt thọ vào bào thai mà thành sanh, có hình thể, hiện căn thân, có nhập có thọ mà lớn lên. “Già khổ” là các căn con người đã chín mùi, hình thể đã thay đổi, tóc bạc, răng long, gân mỏi, da nhăn, lưng còng phải chống gậy mà đi. “Bệnh khổ” là con người bị tội hành hạ đến nỗi bị ung thư, ghẻ mũ, kinh phong, điên cuồng... Bệnh có rất nhiều, hơn một trăm thứ. “Chết khổ” là con người mạng chung, thân hình hư nát, hơi ấm không còn, tắt thở, hồn thần đã lìa. Những thứ ấy đều là khổ.

Sao gọi là Tập đế ? Ðó là không thọ, không nhập, ái đã hết sạch không còn nữa, sự trói buộc đã mở, người thấy bằng trí tuệ, không còn tất cả. Người thế gian không có ai thấy sự trói buộc của năm ấm. Vị này không còn tái sanh nữa, đã mở hết các dây ái trói buộc, nhờ trí tuệ mà thấy “phi thường, khổ, không, phi thân”, nên đã đoạn trừ. Ðó là Tập đế.

Sao gọi là Ðạo đế ? Ðó là tám trực đạo : chánh kiến, chánh tư, chánh ngôn, chánh hành, chánh trị, chánh mạng, chánh chí và chánh định. Sao gọi là chánh kiến ? Chánh kiến có hai loại : có tục có đạo, biết có nhân nghĩa, biết có cha mẹ, biết có Sa môn, Phạm chí, biết có kẻ đắc đạo, chơn nhân, biết có đời này đời sau, biết có thiện ác tội phước. Từ đây đến bên kia nhờ thực hànhchứng đạo. Ðó là chánh kiến thế gian. Nhờ hiểu Tứ đế : khổ, tập, tận, đạo, đã được huệ kiến “không, tịnh, phi thân”. Ðó là đạo chánh kiến.

Chánh tư cũng có hai. Suy tư về học vấn, suy tư về hòa kính, suy tư về giới, thận, suy tư về vô hại. Ðó là thế gian chánh tư. Suy tư về xuất xứ, suy tư về nhẫn, im lặng, suy tư về sự diệt sạch hết ái trước. Ðó là đạo chánh tư.

Chánh ngôn cũng có hai. Không nói hai lưỡi, không nói lời ác, mắng chửi, không nói dối, không nói lời thêu dệt. Ðó là chánh ngôn của thế gian. Lìa bốn lỗi của miệng, giảng thông lời đạo, tâm không tạo tác, sạch hết không còn tàn dư nữa. Ðó là chánh ngôn của đạo.

Chánh hạnh cũng có hai. Thân làm điều thiện, miệng nói điều thiện, tâm nghĩ điều thiện. Ðó là chánh hạnh của thế gian. Thân miệng tinh tấn, tâm niệm tịnh, tiêu diệt phóng đãng, chấp trước. Ðó là chánh hạnh của đạo.

Chánh trị cũng có hai. Không sát không đạo, không dâm, không tự mình cống cao, tu đức tự phòng thủ. Ðó là chánh trị của thế gian. Lìa bỏ ba điều ác của thân, trừ đoạn khổ tập, diệt ái cầu độ thoát. Ðó là chánh trị của đạo.

Chánh mạng cũng có hai. Cầu tiền của theo đạo nghĩa, không tham của một cách bừa bãi, không dùng tâm dối trá với người. Ðó là chánh mạng của thế gian. Ðã xa lìa tà nghiệp, bỏ chức vị thế gian, không phạm sự ngăn cấm của đạo. Ðó là chánh mạng của đạo.

Chánh trí cũng có hai. Không ganh tị, không giận hờn, không tà vạy. Ðó là chánh trí củathế gian. Lìa ba điều ác của tâm, thực hành bốn điều đoan chánh của ý, thanh tịnh vô vi. Ðó là chánh trí của đạo.

Chánh định cũng có hai. Thể tánh thuần thục, điều hòa theo điều lành, an tâm kiên cố, tâm không quanh co tà vạy. Ðó là chánh định của thế gian. Ðược bốn ý chí, tưởng nhớ không, vô tưởng, không nguyện, thấy nguồn gốc của Nê hoàn. Ðó là chánh định của đạo. Ðó là Ðạo đế.

Tỳ kheo bỏ nhà, dứt bỏ ân ái, suy tư về đạo một cách an tịnh, không có luyến ái, hâm mộ, ý không chạy theo dục, thanh tịnh, không chướng ngại. Ðó là nghĩa của đạo pháp, phải tuân theo như vậy.

Hiền giả A na luật nghe đức Phật nói kinh, khai mở, dẫn dắt ý của Ngài. Ngài thọ trì thực hành trong ba tháng thì lậu tận trừ, ý giải thoát, được ba trị, đã chứng đạo rồi, tự biết mình đã được A la hán, liền nói bài kệ :

Không nhàm chán dục lạc.

dục lạc phóng tâm.

Do đó phải chịu khổ.

Làm ác nhiều trói buộc.

Thiểu dục biết đạo hạnh.

Biết thẹn không tự kiến.

Pháp này được thanh tịnh.

Xa ác, thoát thế gian.

Ta dùng Như không định.

Các khổ được diệt trừ.

Theo lời đức Phật dạy.

Giữ hạnh bỏ dục ác.

Bỏ tai hoạn nơi thân.

Ðược lợi theo vô vi.

Từ đó được ba trị.

Ðã nhổ gốc ân ái.

Ngay nơi xóm Duy sa.

Vườn trúc, Bát Nê hoàn

PHẬT NÓI KINH A NA LUẬT, BÁT NIỆM

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23955)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41213)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19690)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23978)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21745)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23297)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27502)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26568)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29315)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33182)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20186)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25766)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20909)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31306)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38568)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21432)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44250)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29822)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42190)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22135)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45743)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32104)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23951)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24383)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29265)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33912)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27678)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32127)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21059)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28844)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21572)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28061)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22065)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21427)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19494)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19466)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19833)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19238)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29173)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20614)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28284)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33178)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31840)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21369)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39619)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21544)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19373)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26383)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24815)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21752)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22380)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29127)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22553)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20468)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23512)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21233)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35312)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24544)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31334)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant