Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11950)
Kinh Tân Tuế


KINH TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0062 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa môn Trúc Ðàm Vô Lan.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời đức Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô độc, nước Xá vệ, cùng đông đủ tám vạn bốn ngàn vị đại chúng Tỳ kheo, tôn giả Xá lợi phất, tôn giả Mục kiền liên ... trước sau đoanh vây nghe đức Phật thuyết kinh. Ðức Phật ở giữa đại hội giống như núi Tu di là vua các hòn núi, một mình cao lớn vòi vọi như trăng rằm sáng chói giữa sao trời, hào quang uy nghiêm to lớn như vàng tía sáng mặt đất, tất cả đều có sắc vàng, trác tuyệt, đặc thù, vòi vọi, không có gì có thể so sánh được. Bấy giờ đức Thế tôn cùng đông đủ chúng Tỳ kheo, vô lượng thanh tịnh, như bầu trời không có mây. Sau ba tháng kiết hạ an cư đã xong, đã đến ngày thọ tân tuế. Các chúng Tỳ kheo im lặng chờ đợi, một lòng tư duy về đạo, an định, không có tư tưởng gì khác.

Bấy giờ hiền giả A nan liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai bên mặt, gối phải sát đất, quỳ xuống chắp tay đến trước đảnh lễ dưới chân đức Phật, nói bài kệ tán thán :

Ðức Thế tôn đến đây.

Với mục đích tế độ.

Ba tháng ở chỗ này.

Kỳ thọ Cô độc viên.

Sở nguyện đã đầy đủ.

Nay chính đã đúng lúc.

Ðạo sư Vô đẳng luân.

Xin tuyên bố Tân tuế.

Khi ấy đức Thế tôn nghe tôn giả A nan nói bài kệ tụng tán thán đức Phật là bậc đạt đến chơn tịch, xong ngồi qua một bên, đức Phật bảo hiền giả Mục kiền liên : “Ngươi hãy đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, những nơi hang núi thâm u vắng vẻ, những thạch thất trên đỉnh núi cao, khắp bảo cho các chúng Tỳ kheo, các vị mới nhập đạo hay hàng cựu học, các vị chưa ngộ đạo, đều mời tụ hội tại rừng cây Kỳ Ðà này. Vì sao vậy ? Vì đức Như lai đã đến lúc ngài muốn truyền thọ Tân tuế”.

Khi ấy tôn giả Ðại Mục kiền liên lên trên hư không, vâng theo thánh chỉ của đức Phật phát ra âm thanh to lớn, bảo khắp tam thiên đại thiên thế giới biết, trong âm vang to lớn ấy tự nhiên diễn ra bài kệ, nói rằng :

Các vị ở khắp nơi.

Rừng sâu giữa núi đá.

Giờ Tân tuế đã đến.

Tâm nguyện sẽ thành tựu.

Khi ấy các Tỳ kheo ở ngay tại chỗ hay du hành trong tam thiên đại thiên thế giới nghe bài kệ thông báo rồi, mọi người đều dùng thần túc hay tất cả phương tiện, biến hiện thân hình đi đến rừng cây Kỳ đà, vườn Cấp Cô Ðộc đến trước đức Phật xin thọ Tân tuế, rồi đồng đứng qua một bên. Ðức Phật nhóm họp các đệ tử. Họ đều từ các phương quốc độ khác nhau đi đến, đồng một lúc đều hội họp gồm có 80 vạn 4 ức vị muốn thọ tân tuế. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Ngươi hãy đến đánh lên tiếng kiền chùy vì nay đã đúng lúc rồi”.

Tôn giả A nan vâng lời, từ tòa đứng dậy liền đánh kiền chùy, tiếng vang khắp cõi Phật, một nước lớn của một đức Phật cho đến địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh nghe tiếng kiền chùy đều nhờ oai thần của Phật nên tất cả bệnh khổ độc thảy đều tiêu trừ đều được an ổn. Bấy giờ đức Thế tôn dùng tiếng phạm âm thanh tịnh bảo các Tỳ kheo : “Các ngươi hãy đứng dậy rút thẻ kiểm tăng số (hành xá la trù), mọi người đều đối diện nhau để sám hối những điều sai lầm, tự trách mình, cùng nhau xin lỗi các điều sai lầm, các phi pháp đã vi phạm, mọi người đều phải nhẫn nhục, hòa đồng, thanh tịnh thân, miệng, tâm để cho không còn chút ô uế nào sót lại. Khi ấy các Tỳ kheo liền vâng theo lời Phật dạy, họ đều từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, mỗi người mỗi người đều cùng nhau tạ lỗi, sám hối những điều sai lầm xong, trở về ngồi lại chỗ cũ.

Khi đức Phật đã thấy chúng tăng đều trở về ngồi lại chỗ cũ xong, ngài dũ lòng thương xót, nhân đó từ tòa đứng dậy, tự chắp tay hướng về các Tỳ kheo nói rằng : “Hỡi các chúng Tỳ kheo ! Hãy giữ tâm hòa thuận cùng hướng vào nhau để sám hối những lỗi lầm. Vì sao vậy ? Thân, khẩu, ý của ta thản hoặc có những lỗi lầm sai trái ; đức Như lai, bậc Vô thượng tôn, chí chơn không có sự sai lầm, các nghiệp khuyết lậu, tâm không phóng dật, không mất trí tuệ, không có tham luyến, không phá giới cấm, đối với trong hàng các Thanh vănDuyên giác, tôn đức vượt hơn chư thiên, nhân dân của thế gian hết sức lâu dài trong ba cõi nhưng không ai sánh bằng.

Lại nữa này các Tỳ kheo, nếu các giòng họ xuất gia học đạo, tu theo pháp của Sa môn, tâm tánh mỗi người khác nhau, chí nguyện không đồng, đối với sự nghiệp thành Phật ở đây phải nên thi hành, phải vâng theo sự dạy dỗ không được vi phạm. Vì sao vậy ? Nếu có Tỳ kheo ở nơi Thánh chúng kiến lập tân tuế, thân hạnh mỗi người mỗi khác, tâm niệm không đồng mà ôm lòng nịnh hót cho rằng Tỳ kheo kia không thọ nhận sự chơn chánh, không nên thọ cụ giới. Vì sao vậy ? Vì thân, khẩu, ý thanh tịnh mới là thiện chơn chánh, thọ đầy đủ giới của Phật, ôm lòng cung kính, thuận theo bậc thượng, bậc trung, bậc hạ, không có ngạo mạn, phóng túng, hỗ thẹn, khiêm cung mới phù hợp với giới pháp. Vì sao vậy ? Hành giả như vậy không có sự oán thù, ghen ghét, không có kết hận, quán xem pháp cổ kim không có rối loạn. Kiến lập Tân tuế cũng không có tâm sân hận, tự đại. Vì sao vậy ? Vì giữ giới cấm thanh tịnh. Nếu tạo lập Tân tuế, kiến lập giới tối đại mà không thanh tịnh thì không phải là đệ tử của đức Phật.

Giống như người chết, thi hài để nơi đất, vứt bỏ trong gò mã, dù cho thiên thượng nhơn gian chư thiên, nhân dân đều đem thuốc hay, thần chú, thuật giỏi, thương nhớ muốn làm cho kẻ ấy sống lại cũng không thể cứu sống được. Cũng vậy Tỳ kheo hủy phạm giới cấm, chánh thức được nhập chúng, dù có nhiều tân tuế cũng không thể tự cứu được để kiến lập tân tuế. Vì sao vậy ? Vì người ấy đã phá hủy giới thì lẽ tự nhiên phải bị quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh khổ sở độc hại, cay đắng vô lượng. Vậy các người cần phải cẩn thận.

Ðức Phật thuyết pháp xong từ tòa đứng dậy, bước ra khỏi nệm cỏ. Ngay lúc đó tam thiên đại thiên thế giớisáu thứ chấn động. Ðàn không hầu, kỷ nhạc không gãy mà tự nhiên phát ra âm thanh, ở giữa hư không mưa các loại danh hương, rải đủ thứ hoa. Khi đức Phật nói giới pháp phẩm này để bảo chúng Tỳ kheo, bấy giờ các Tỳ kheo đều ở ngay nơi chỗ ngồi của mình nhờ lời dạy chơn chánh oai thần của Phật thánh công huân sáng rạng, phổ chiếu cùng khắp, mỗi người đều tự đứng lên, trong tâm không còn ưa thích dục nữa, thường ngồi ở trên đỉnh núi, dưới gốc cây, lấy đó làm vui. Tất cả đều từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, tự miệng họ nói lên rằng : “Tất cả các pháp đều từ Phật mà ra, Thánh là gốc của đạo, che chở tất cả bằng con mắt từ mẫn. Ngài là bậc tối tôn đặc thù, thánh đức vô thượng, siêu tuyệt không ai bằng, nguy nga vòi vọi, tuyên bố hóa đạo”.

Bấy giờ đức Như lai ở ngay chỗ tôn quý sám tạ Thánh chúng, xót thương chúng sanh rồi trở về nệm cỏ. Ðức Phật vừa ngồi lại xong, Thánh chúng cũng vậy, ai về chỗ nấy, lại ngồi xuống đúng như pháp. Bấy giờ đức Thế tôn thấy đã đến giờ thọ tuế, xót thương các hội chúng, ngài ở trước các Tỳ kheo, ba lần tác bạch đã xong, công việc hoàn tất, năm Tỳ kheo từ tòa ngồi đứng dậy kiến lập tân tuế. Vừa lập tân tuế, một vạn Tỳ kheo được thành Ðạo tích, tám ngàn Tỳ kheo được quả A la hớn. Chư thiên trên hư không, tám vạn bốn ngàn vị đều được khai hóa, đều được pháp đạo ý, vô thượng chánh chơn, giảng thuyết kinh pháp không sao kể xiết, các loại chúng sanh kiến lập ba thừa. Nay Phật thương xót hạ cố tấm lòng, ngồi trong đại chúng, độ thoát ách nguy, mười phương đều mong nhờ cứu vớt.

Khi ấy Long vương A Ðầu Hòa Nan, tất cả đều rời chỗ ở của mình, cầm nước hoa Chiên đàn, tạp hương đi đến chỗ đức Phật, đến chỗ thọ Tân tuế, quy y đức Phật cùng với Thánh chúng, cúi đầu lạy dưới chân, dùng tạp hương chiên đàn cúng dường đức PhậtTỳ kheo tăng, rồi dùng bài kệ này để tán tụng rằng :

Dù ở trên đỉnh núi. Ngồi dưới bóng cây râm.

Du hành trên biển cả. Ôm lòng tham, sân hận.

Ðến rồi lập Tân tuế. Hằng ức chúng sanh họp.

Cúng dường phụng thờ Phật. Ðược thành cửa cam lồ.

Bấy giờ Hải Long Vương đem viên ngọc Xích chơn châu hóa làm giao lộ, gác tràng thượng diệu, dài rộng 400 dặm do vàng, tía, lưu ly hiệp lại tạo thành, dùng tay nắm giữ, đi trên không trung. Ra khỏi Long cung, từ gác giao lộ lấy nước ao có tám mùi vị, dùng dòng nước sạch rưới lên mặt đất để cúng dường đức Như lai và chúng Tỳ kheo, dùng gác giao lộ dâng lên đại thánhTỳ kheo tăng, lấy ngọc anh lạc rải lên Phật và thánh chúng liền nói bài kệ :

Thanh tịnh như hư không. Ðồng nhất tự nhiên vô.

Cấm giới rất thanh tịnh. Hơn ngọc diệu minh châu.

Hằng hà sa số chúng. Ngồi ở nơi đại hội.

Ðều cúng dường an trụ. Và các chúng Thanh văn.

Bấy giờ mười phương các vị Bồ tát, Thiên long, Thần vương đều từ mười phương đi đến để hội họp, hóa ra nhiều vật cúng dường kỳ lạ để cúng dường đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo, đảnh lễ quy y, thưa hỏi và thọ trì kinh điển. Ai nấy đều như vậy, hoàn toàn không có gì khác, đều đến đảnh lễ, đều phát đạo ý vô thượng chánh chơn. Khi ấy thiên nhơn mỗi mỗi đều phát tâm cúng dường đức Thế tôn và các Thánh chúng, dùng bài kệ để tán thán :

Trong tâm đã thanh tịnh.

Ðệ nhất không nghĩ bàn.

Thánh chúng tối tôn trưởng.

Ngồi ở trong hội này.

Vứt bỏ tất cả tưởng.

Khéo trừ các cấu uế.

Ngày nay phụng cúng dường.

Với hết lòng cung kính.

Khai hóa cứu các nạn.

Tất cả các trần lao.

Cấm giới đã thanh tịnh.

Như ngọc bảo minh nguyệt.

Tâm thường tư duy chánh.

Ðoạn các kết sân nhuế.

Hôm nay bậc Ly cấu.

Hiệp hội lập Tân tuế.

Dạy dỗ tâm khó dạy.

Tuân hành như Thái sơn.

Thường hành pháp vô ngại.

Phật an lập Tân tuế

Khi ấy Thiên nhân nói kệ này xong, đảnh lễ dưới chân đức Phật, bỗng nhiên biến mất, đều trở về cung điện của mình, thảy đều vui mừng, tự vui với pháp. Bấy giờ đức Thế tôn hiện ra bóng mát lớn, các báu giao lộ để che thánh chúng, bèn nói bài kệ này :

Giới hạnh thật thanh tịnh.

Việc làm khó theo kịp.

Hôm nay thí điều vui.

Che khắp lập Tân tuế.

Dâng lên An trụ tử.

Hộ giới thật thanh tịnh.

Như chim thích lông mình.

Oai Phật hộ Tân tuế.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo : “Nay Phật Thế tôn tuy Tân tuế một năm một hội tu hành pháp tắc thanh tịnh hộ đạo, giữ gìn thân khẩu ý ba sự không ô uế, phụng hành thập thiện, tứ đẳng, lục độ, trừ bỏ sáu tình, ba độc, năm cái, mười hai sợi dây lôi kéo, thanh tịnh như mặt trời chiếu soi thiên hạ, ánh sáng chiếu diệu, bóng tối tiêu trừ, nhập vào ánh sáng đạo vô thượng chơn chánh, tất cả hòa đồng, khổ vui không có hai mới đúng với đạo pháp”. Lúc đó đức Phật bèn nói bài tụng :

Chư Phật ra đời vui.

Nói kinh pháp cũng vui.

Thánh chúng hòa đồng vui. 

Thường hòa được an lạc.

Ðức Phật nói như vậy, các chúng Tỳ kheo chư thiên, rồng, quỷ thần, A tu luân, nhơn dân của thế gian nghe đức Phật dạy không ai không hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

Thế tôn du hànhXá vệ.

Vì các đệ tử nói như vậy.

Tất cả đều ở hội Kỳ thọ.

Nay Bát hòa lan theo thường lệ.

Xá lợi phất chắp tay bạch Phật

Mong Thế tôn nói Bát hòa lan.

Khi ba cõi tôn xưng nói ra.

Làm pháp gì Tỳ kheo tự tịnh ?

Xá lợi phất vì ta trải cỏ.

Dưới gốc cây ra sức trừ ma.

 Nếu ai trải cỏ cũng như vậy.

Ðời nay kẻ ấy phải thanh tịnh.

Như bậc hiền giả ngồi.

Ðó là vô sở úy.

Ngồi an lạc không dục.

An ổn trong ba cõi.

Kiết hạ nay đã xong.

Ðó là đệ tử Phật.

Hãy tự mình phân biệt.

Thương xót khắp thế gian.

Là tháng lớn trong năm.

Là giác đệ nhất trí.

Hãy tự bỏ thân hành.

Kiến đoạn bao nhiêu khổ.

Ngài nói các tội não.

Biết rõ vô số khổ.

Ðó là đắc Ðạo tích.

Nay vì Bát hòa lan.

Mỏng tham dục sân nhuế.

Cũng hay trừ gốc ái.

Có thể đoạn sanh tử.

Cũng hết căn não tưởng.

Tự đến được thiên thượng.

Cũng lại sanh nhơn gian.

Ðó là được hai đạo.

Nay vì Bát hòa lan.

Ðã được sanh lên trời.

Thì không còn đọa lạc.

Khi đã sanh lên trời.

Ðã diệt hết các ái.

Pháp đệ nhất thế gian.

Tôn giả đã đạt được.

Ðó là được hai đạo.

Nay nhờ Bát hòa lan.

Tất cả các ác não. 

Ðã hết, được giải thoát.

Ðã được bốn cam lồ.

Ðó là vô sở úy.

Ðã diệt hết bóng tối.

Hướng về tất cả khổ.

Ðó là tám tối đạo.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã xong một tháng liền được một trí, đã đến tháng thứ hai liền được hai trí, một lúc ba tháng liền được ba trí, vui thích ba trí, nay là Bát hòa lan. Vị ấy đã trị lành bốn ghẻ lỡ, không còn lưu dư, đã vượt qua bờ bên kia, đã được an ổn. Ðã qua bốn tháng rồi, bậc chẳng còn gì nữa, đã thành công đức nay là Bát hòa lan, có thể hàng phục Long đầu, Nan đầu, Hòa la, chấn động núi Tu di và nước biển, cho đến cõi trời cũng đều bị chấn động. Bọn của ông Mục kiền liên nay là Bát hòa lan.

Tối hiền giả tự giác.

Nên các xứ đã hết.

Là phước giúp thế gian.

Phật tự nói lời này.

Thường độc hành dưới cây.

thí dụ số đông.

Phật Bích chi tối thượng.

Nay là Bát hòa lan.

Ba chỗ không đắm trước.

Chúng vì ý thanh tịnh.

Ba thân đã ổn định.

Vốn đã lìa kiêu mạn.

Tại ba cõi vô dục.

Ðược tịnh ý bất động.

An ổn như Tu di.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã hành bốn đều chánh.

Bốn đạo đã được định.

Phật bảohiền giả.

Tăng phước đức mọi người.

Chỗ cúng thí tối an.

Trọn không thể bại hoại.

Phật được các trí huệ.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới đã đầy đủ. 

Bất động trước các lực.

Pháp thực y bị phục.

Thường ưa ở trong núi.

Ðó là hạnh kiên cố.

Ðầy đủ không sứt mẻ.

Chỗ hành giả thanh tịnh.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới trừ các ác.

Chúng chắp tay thọ pháp.

Ðược tất cả hướng về.

Các ma đều hàng phục.

Chư thiên cùng thiện nhân

Khen ngợi giới cụ túc.

Không còn thấy các ma.

Nay là Bát hòa lan. 

PHẬT NÓI KINH TÂN TUẾ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23940)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41178)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19661)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23957)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21733)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27477)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29287)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33153)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20171)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25734)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20885)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31262)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38518)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21401)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44214)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29790)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22113)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45699)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32080)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23936)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24354)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27652)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21033)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28826)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21537)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23621)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33142)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39588)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21528)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19356)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24790)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22354)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29110)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22538)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24535)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31321)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant