Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tu Đạt

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14790)
Kinh Tu Đạt


PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0073 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tiêu Tề, Thiên Trúc Tam tạng Cầu Na Tỳ Ðịa.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ cư sĩ Tu Ðạt đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn xong ngồi qua một bên. Cư sĩ Tu Ðạt ngồi qua một bên xong, đức Thế Tôn hỏi rằng:

–Này cư sĩ, gia đình cư sĩthực hành hạnh bố thí chăng?

Cư sĩ trả lời:

–Dạ có, bạch Thế Tôn, gia đình con có bố thí nhưng chỉ bố thí những thức thô xấu, không phải diệu mỹ, như cơm lẫn với cám, canh lá gai chỉ có một miếng gừng để thí.

Ðức Thế Tôn bảo:

–Này cư sĩ, dù bố thí những thức thô xấu hay bố thí những thức mỹ diệu, cả hai đều có quả báo. Nhưng này cư sĩ, nếu bố thí những thức ăn thô xấu, kẻ ấy không có lòng tinbố thí, bố thí không đúng lúc, không tự tay bố thí, không tự mình đến để bố thí, không biết, không có tín tâm cũng không biết có quả báobố thí, thì nên biết rằng sẽ thọ quả báo đúng như thế, ý không muốn cho phòng xá tốt đẹp, cũng không muốn cho áo quần tốt đẹp, cũng không muốn cho đồ ẩm thực ngon lành, cũng không muốn cho ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Người cư sĩ này vì không chí tâm bố thí và có quả báo như vậy. Này cư sĩ đó là người không chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, người thực hành bố thí mà có tín tâm, tùy thờibố thí, tự tay bố thí, đi đến để bố thí, có tri, có tín, biết có quả báo nhân duyên mới hành bố thí. Nên biết người ấy có quả báo như vầy: Ý muốn gia đình tốt đẹp, nghiệp báo cực tốt, đồ dùng cực đẹp, áo quần cực đẹp, muốn đồ ăn, thức uống ngon lành, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Cư sĩ nên biết, kẻ ấy chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu nhưng không có tín tâmbố thí, không tùy thờibố thí, không tự tay bố thí, không đến để bố thí, cũng không biết cũng không tin, cũng không biết có nhân duyên hành quả báo mà thực hành bố thí, nên biết kẻ ấy sẽ thọ báo đúng như thế, ý cũng không muốn cho gia nghiệp tốt đẹp, cũng không muốn cho y phục tốt đẹp, cũng không muốn đồ ăn ngon lành, cũng không muốn ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, vì đây là không hết lòng bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, tín tâm ưa thích bố thí, tùy thời thí, tự tay bố thí, tự mình đến để bố thí, có trí, có tín, biết có hạnh quả báo mà hành bố thí. Nên biết kẻ ấy sẽ được quả báo đúng như vậy. Ðó là tâm muốn gia nghiệp tốt đẹp, cho đến muốn đồ ăn, thức uống, ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, nên biết như vậy vì kẻ ấy tùy thời bố thí nên có quả báo ấy. Vì sao? Này cư sĩ, thuở xưa ở đời quá khứ có một bà la môn tên là Tỳ Lam, rất giàu có, của cải vô lượng, vị ấy đã làm một cuộc bố thí lớn như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng vàng đựng đầy bạc, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng bạc đựng đầy vàng, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn thớt voi được trang sức đầy đủ, voi trắng như tuyết, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn con ngựa được trang sức đầy đủ dây vàng xâu ngọc, thực hành đại bố thí như sau: lấy tám vạn bốn ngàn con trâu, lấy áo làm dây thừng, trâu thường cung cấp một hộc sữa, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: dùng tám vạn bốn ngàn ngọc nữ đoan chánh, đẹp đẽ, trang sức đầy đủ châu báu, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: ngoài ra còn có thức ăn mỹ vị nhiều vô số kể.

Ðó là, này cư sĩ, bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, nhưng phước ấy không bằng cúng thí cho một vị tiên nhơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: thí cho nhơn tiên ở cõi Diêm Phù Ðề này, nhưng không bằng phước đức cúng cho một vị Tu Ðà Hoàn sẽ được nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy cúng thí cho người phàm phu, tiên nhơn và một trăm vị Tu Ðà Hoàn cõi Diêm Phù Ðề không bằng cúng thí cho một vị Tư Ðà Hàm, phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm, tiên nhơn, một trăm vị Tu Ðà Hoàn và một trăm vị Tư Ðà Hàm ở Diêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A Na HàmDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A La Hán được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A La HánDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu, cho đến... tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng ở cõi Diêm Phù Ðề cũng không bằng đem ý thanh tịnh thọ Tam tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy, thực hành sự đại bố thí ấy, bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến đem ý thanh tịnh phụng hành ba tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới không bằng đối với tất cả chúng sanh cho đến loài trâu, bò trải lòng từ chỉ trong khoảnh khắc, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy thực hành sự bố thí như vậy, đối với những người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến tất cả chúng sanh phân biệt hạnh từ, kể cả thương yêu loài trâu, bò trong khoảnh khắc, không bằng đối với tất cả hành, tư duy, cho dù trong khoảng khắc thấy nó là vô thường, khổ, không, vô ngã, thì được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, ý ông nghĩ sao? Bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy là ai khác chăng? Chớ có nghĩ như vậy. Vị ấy chính là Ta vậy. Lúc ấy Ta là bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam.

Như vậy, này cư sĩ, lúc ấy ta tự làm lợi ích cho mình và làm lợi ích cho người khác, lợi ích cho nhiều người, thương xót thế gian, mong cầu ý nghĩa, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Ta thuyết pháp như vậy nhưng vẫn chưa rốt ráo, chưa rốt ráo vô xấu, chư rốt ráo phạm hạnh, chưa rốt ráo thành tựu phạm hạnh, vì vậy lúc ấy ta chưa thoát khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu không vui, cũng chưa thoát khỏi khổ đau.

Này cư sĩ, nay ta là Như Lai xuất hiện thế gian, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, Minh hạnh thành, là Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðạo pháp ngự, Thiên nhơn sư, là Phật, Thế Tôn. Nay ta tự làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho người khác, vì lợi ích nhiều người, thương xót người thế gian, cầu nghĩa lý, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Nay ta thuyết pháp đến chỗ rốt ráo, rốt ráo vô cấu, rốt ráo phạm hạnh, rốt ráo hành phạm hạnh. Nên nay ta đã thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ, bất lạc. Ta đã thoát khỏi mọi khổ đau.

Ðức Phật thuyết như vậy, cư sĩ Tu Ðạt nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22310)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16030)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15042)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18972)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14456)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18639)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14438)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13599)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13561)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11829)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13267)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13674)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13259)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15034)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11090)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16466)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11916)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17608)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12884)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13721)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14864)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16401)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13139)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12103)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12780)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12925)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14185)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16491)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12386)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14393)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11042)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13201)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13171)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13011)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13516)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10240)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13977)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10244)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13712)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16276)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11979)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12989)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12691)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10806)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11014)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10954)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11907)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12775)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11074)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12630)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11342)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant