Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ý

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14720)
Kinh Ý

PHẬT NÓI KINH Ý

 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0082 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Pháp sư Trúc Pháp Hộ (Ðời Tây Tấn)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ.

Bấy giờ có một Tỳ kheo ngồi một mình trong phòng, tâm khởi lên ý nghĩ: “Cái gì dẫn thế gian đi? Vì sao phải thọ khổ? Do sự sanh khởi nào mà nó tiến hành?”.

Khi ấy vào lúc xế trưa, Tỳ kheo ấy từ thiền tọa đứng dậy, đi đến chỗ đức Thế Tôn rồi ngồi qua một bên, bạch đức Thế Tôn rằng:
–Bạch Thế Tôn, ngày hôm nay con ngồi một mình trong phòng, khởi lên ý nghĩ như vầy: “Cái gì dẫn thế gian đi? Vì sao phải thọ khổ? Do sự sanh khởi nào mà nó tiến hành?”.

Ðức Thế Tôn nghe xong khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Này Tỳ kheo, đó là con đường hiền thiện có sự quán chiếu hiền thiện, đó là biện tài khéo léo rằng: “Cái gì dẫn thế gian đi? Vì sao phải thọ khổ? Do sự sanh khởi nào mà nó tiến hành?”. Này Tỳ kheo, nghi vấn của ngươi có phải như vậy chăng?

Tỳ kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Ðức Thế Tôn nói:

–Này Tỳ kheo, ý dẫn thế gian đi, do ý nên thọ khổ, do ý sanh mà nó dẫn đi. Này Tỳ kheo, do ý dẫn thế gian đi, phải thọ khổ, và do ý sanh nên nó dẫn đi. Này Tỳ kheo, Thánh đệ tử, bậc Vô sở trước, đối với ý lôi kéo, ý sanh ra, ý dẫn đi. Này Tỳ kheo, Thánh đệ tử, bậc A la hán có thể tự chế ngự ý, tự mình không tùy thuận ý.

Tỳ kheo thưa:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn .

Tỳ kheo ấy đã nghe đức Thế Tôn dạy, khéo ưa thích, khéo thấu hiểu, rồi lại hỏi tiếp:

–Bạch Thế Tôn, đa văn Tỳ kheo, được nói là đa văn Tỳ kheo. Bạch Thế Tôn, sao gọi là đa văn Tỳ kheo? Ðức Thế Tôn như thế nào là đa văn Tỳ kheo?

Ðức Thế Tôn nghe xong khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Này Tỳ kheo, đó là con đường hiền thiện có sự quán chiếu hiền thiện, đó là biện tài, lời nói hiền thiện rằng: “Bạch Thế Tôn, đa văn Tỳ kheo, đa văn Tỳ kheo ấy, bạch Thế Tôn, sao gọi là đa văn Tỳ kheo? Ðức Như Lai nói thế nào là đa văn Tỳ kheo?”.

Này Tỳ kheo, có phải ngươi hỏi như vậy chăng?

Thầy Tỳ kheo đáp:

-Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Ðức Thế Tôn nói:

–Này Tỳ kheo, những điều ta thuyết giảng rất nhiều: khế kinh, ca vịnh, thọ ký, kệ tha, nhân duyên, pháp cú, thí dụ, sở ứng, sanh xứ, phương đẳng, vị tằng hữuthuyết pháp. Này Tỳ kheo, nếu có bất cứ ai chỉ nghe ta nói bốn câu kệ mà biết nghĩa, biết pháp, theo pháp thực hành, cùng tương ưng với pháp, như pháp mà thuyết. Như vậy là Tỳ kheo đa văn, như vậy là Tỳ kheo đa văn, Như Lai nói như vậy là Tỳ kheo đa văn.

Thầy Tỳ kheo thưa:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn.

Tỳ kheo ấy nghe đức Thế Tôn dạy, khéo tư duy nhớ nghĩ, khéo hoan hỷ phụng hành. Rồi lại hỏi tiếp:

–Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo nghe thuyết pháp xong, Tỳ kheo nghe thuyết pháp xong có trí huệ nhanh nhạy. Bạch Thế Tôn, sao gọi là Tỳ kheo nghe thuyết pháp xong gọi là bậc có trí huệ nhanh nhạy? Thế nào được đức Như Lai tuyên bố là bậc có trí huệ nhanh nhạy?

Ðức Thế Tôn bảo:

–Này Tỳ kheo, lành thay! Lành thay! Ðó là con đường hiền thiện có sự quán chiếu hiền thiện, đó là biện tài, lời nói hiền thiện rằng: “Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo nghe thuyết pháp xong, Tỳ kheo nghe thuyết pháp xong có trí huệ nhanh nhạy. Bạch Thế Tôn, đức Thế Tôn nói như thế nào là Tỳ kheo nghe thuyết pháp xong có trí huệ nhanh nhạy?

Này Tỳ kheo, có phải hỏi như vậy chăng?

Tỳ kheo thưa:

–Ðúng như vậy, bạch Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Tỳ kheo này, Tỳ kheo kia khi nghe rằng: “Ðây là khổ”, liền dùng trí tuệ mà biết như thật. Khi nghe “Khổ tập, khổ tận, khổ tận trụ xứ” thì liền dùng trí tuệ biết như thậtkhổ tập, khổ tận, khổ tận trụ xứ. Tỳ kheo ấy nghe xong, dùng trí tuệ để biết như thật. Này Tỳ kheo, như vậy là Tỳ kheo nghe xong có trí huệ nhanh nhạy, đức Như Lai nói đó là Tỳ kheo nghe xong có trí huệ nhanh nhạy (minh đạt).

Tỳ kheo thưa:

–Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỳ kheo ấy nghe đức Thế Tôn dạy xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo thông minhbiện tài minh đạt, nói là Tỳ kheo thông minh, trí tuệ minh đạt. Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ kheo thông minh, trí tuệ minh đạt? Ðức Như Lai nói thế nào là Tỳ kheo thông minh trí tuệ biện tài minh đạt?

Ðức Thế Tôn nghe xong khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Này Tỳ kheo, đó là con đường hiền thiện có sự quán chiếu hiền thiện, đó là biện tài, lời nói hiền thiện rằng: “Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo thông minh, trí tuệ mẫn tiệp, Tỳ kheo thông minh, biện tài mẫn tiệp ấy, bạch Thế Tôn, sao gọi là Tỳ kheo thông minh trí tuệ, biện tài mẫn tiệp? Ðức Như Lai nói thế nào là Tỳ kheo thông minh trí tuệ, biện tài mẫn tiệp?”.

Này Tỳ kheo, có phải hỏi như vậy chăng?

Tỳ kheo thưa:

-Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo đó không có ý niệm tự hại, không có ý niệm hại kẻ khác, cũng không có ý niệm gây hại cả hai. Tỳ kheo chỉ có ý niệm làm lợi ích cho chính mình, cũng làm lợi ích cho kẻ khác, lợi ích cho nhiều người, thương xót thế gian, mong muốn cho trời người được lợi ích, ý nghĩa. Tỳ kheo như vậy là thông minh, trí tuệ mẫn tiệp. Như Lai nói đó là Tỳ kheo thông minh trí tuệ, biện tài mẫn tiệp.

Tỳ kheo ấy thưa rằng:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn.

Tỳ kheo ấy nghe đức Thế Tôn dạy, khéo tư duy, suy nghĩ, thọ trì đọc tụng xong, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn rồi lui ra.

Bấy giờ Tỳ kheo ấy theo sự dẫn dụ của đức Thế Tôn, sống cô độc ở nơi thanh tĩnh, tâm không tán loạn, an trụ tịch tịnh. Vị Tỳ kheo ấy sống cô độc ở nơi yên tĩnh, tâm không tán loạn, an trụ tịch tĩnh, để đạt được mục đích mà một người khi cạo bỏ râu tóc, khoát áo cà sa, tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo là chỉ mong thành tựu vô thượng phạm hạnh, thấy pháp, thành thần thông, tác chứng an trụ. Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết như thật về danh sắc. Vị tôn giả ấy đã biết pháp rồi, liền thành A la hán.

Ðức Phật thuyết pháp như vậy, Tỳ kheo ấy sau khi nghe đức Phật dạy, hoan hỷ vui mừng.

 

PHẬT NÓI KINH Ý

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28987)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20697)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19456)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30526)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36455)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33249)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35584)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21002)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21931)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25275)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25813)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31276)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18576)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25153)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23785)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28956)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20885)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31462)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25556)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22535)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25735)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23301)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23737)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40620)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23360)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22470)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23518)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16973)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23297)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24324)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41121)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19010)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20506)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27739)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38135)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34088)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36804)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24019)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29209)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60176)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68759)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24512)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22733)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26382)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26558)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20831)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20079)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27579)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46466)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53597)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23624)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21106)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25604)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29288)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant