Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14082)
Kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca


PHẬT NÓI KINH ƯU BÀ DI ÐỌA XÁ CA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0088 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ bản đời Tống

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Phật dừng chân ở phái Ðông thành, nước Xá vệ. Bấy giờ có một người con của nữ nhân tự là Vu da lâu, người đời gọi là Vu da lâu mẫu. Ðức Phật ngồi trên điện nhà của Vu da lâu mẫu. Có một người nữ phụng trì giáo giới tên tự là Ðọa xá ca, vào lúc sáng sớm ngày mười lăm trong tháng, thức dậy tắm rửa, cùng bảy người con, vợ đều tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới, nhân buổi sáng ngày ăn cơm, ăn xong rửa tay, dẫn bảy người con, vợ đến trước đức Phật để đảnh lễ. Ðức Phật bảo ngồi xuống, tất cả đều ngồi xuống. Ðức Phật hỏi Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Tại sao hôm nay tất cả đều tắm rửa, mặc áo mới, cùng với con, vợ, đồng đến chỗ Phật.?

Ðọa xá ca thưa:

–Hôm nay là ngày mười lăm, chúng con trai giới. Con nghe một tháng phải trai giới sáu ngày, cho nên con cùng con, vợ, đồng trai giới, không dám giải đãi khinh mạn.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Trai pháp chơn chánh của Phật có tám giới khiến cho con người được độ thoát, không đọa vào ba chỗ ác, sanh ở đâu cũng thường có phước đức che chở, cũng nhờ nhân duyên tám giới bổn này mà đưa đến thành Phật.

Những gì là trai pháp chơn chánh của Phật? Thế gian có người hiền thiện giữ giới, một tháng có sáu ngày trai tịnh: ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày hai mươi ba, ngày hai mươi chín và ngày ba mươi. Ngày trai tịnh sáng sớm thức dậy bảo các người trong nhà:

–Ngày hôm nay ta trai tịnh, trong (một) ngày này cả nhà chớ có uống rượu, chớ có đấu tranh, chớ có nói chuyện tiền tài. Cả nhà, ý nghĩ miệng nói phải như A-la-hán. A-la-hán không có ý sát sinh, ngày trai tịnh giữ giới cũng phải như A-la-hán, không có ý sát sinh, không có ý đánh đập, nghĩ thương súc sanh và côn trùng, khiến cho thường phát sanh tâm ý như bậc A-la-hán.

Ðó là ý thứ nhất. Ngày và đêm hôm nay giữ gìn ý sát, khiến cho không sát, giữ ý như vậy là giới thứ nhất của Phật.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh giữ ý phải như A-la-hán không có tâm tham, không có tham luyến thế gian, không có ý tham dù đó là một sợi lông, cọng rau. như vậy ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán, người giàu có thường nghĩ đến việc bố thí, người nghèo khó chẳng có gì, vẫn luôn luôn nghĩ đến việc bố thí. Ðó là giới thứ hai.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán, A-la-hán không chấp chứa phụ nữ, cũng không nghĩ đến vợ, cũng không ham thích nữ nhơn, cũng không có ý dâm. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ ba.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh, giữ ý phải như A-la-hán, không nói dối, không có ý làm thương hại người. Khi nói là nói kinh Phật, lúc im lặng chỉ nghĩ đến các điều thiện. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ tư.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán không uống rượu, không nghĩ đến rượu, không nhớ đến rượu, dùng rượu là xấu ác. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ năm.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. Ý A-la-hán không thích ca múa, dù có nghe cũng không thích tiếng âm nhạc, cũng không thích mùi hương hoa. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ sáu.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán không nằm giường cao đẹp, ý cũng không nghĩ đến việc nằm trên giường cao đẹp. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ bảy.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán ăn đúng ngọ, sau giờ ngọ, đến sáng không được ăn lại. Ðược phép uống nước mật đường. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ tám

Ðức Phật lại bảo Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Thế gian có người đầu tóc dơ dáy, phải tự mình gội rửa đầu tóc. Gội rồi người đó liền vui mừng nói: “ Ðầu của ta đã hết cáu” Có người giữ tám giới này trong một ngày một đêm, trời sáng liền mừng, vui mừng liền nghĩ đến giới kinh của Phật như vậy. Nếu ở trong tâm con người có ý ác liền bỏ, thiện ý được sanh.

Ðức Phật dạy:

–Có người thân thể dơ bẩn phải vào nước để tắm rửa, thân thể đã được sạch sẽ, ra khỏi nước vui vẻ nói: “Thân ta hết bụi được nhẹ nhàng”. Nếu có người thọ trai giới trong một ngày một đêm, trời sáng liền vui mừng nghĩ đến lời chơn chánh của Phật, tự nghĩ khi nào được đắc đạo, khiến cho tâm ta được bất động không còn giong ruổi nữa, khiến cho tâm chí ta một lòng được đạo vô vi.

Ðức Phật dạy:

–Có người áo bị nhiều dơ bẩn, dùng nước tro để tẩy giặt sạch, người đó liền vui mừng. Nếu có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, trời sáng liền vui mừng, bèn nghĩ đến tỳ kheo tăng: “Trong tỳ kheo tăng có Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán”. Niệm tỳ kheo tăng là như vậy.

Ðức Phật dạy:

–Như người có tấm gương bị dơ bẩn, lau chùi chất dơ bẩn đi thì gương liền sáng ra. Có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, có tâm từ bi đối với thiên hạ, tâm được mở ra như mặt trời, như gương sáng, không còn ý sân hận. Nếu có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, xót thương thiên hạ, lắng lòng tự suy nghĩ, tự giữ ý cho ngay thẳng, tự nhớ nghĩ những điều xấu ác ở trong thân như vậy. Như vậy là không còn sân hận nữa.

Ðức Phật bảo Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Giữ tám giới tịnh này trong một ngày một đêm đừng cho thất thoát còn hơn là đem vàng bạc châu báu cúng dường cho tỳ kheo tăng vậy. Trong thiên hạ có mười sáu nước:

1- Ương Ca

2- Ma kiệt

3- Ca Di

4- Câu Tịch La

5- Cưu Lưu

6- Bát Xà Trà

7- A Ba Da

8- A Hoan Ðề Du

9- Chỉ Ðề Du

10- Việt Kỳ Du

11- Tốc Ma

12- Tốc Lại Tra

13- Việt Ta

14- Mạt La

15- Du Nặc

16- Kiếm Thiện Ðề.

Nếu đem bảo vật châu báu của mười sáu nước này để cúng dường tỳ kheo tăng cũng không bằng giữ trai giới trong một ngày một đêm. Giữ trai giới khiến cho người được giải thoát cuộc đời, còn đem tài vật để bố thí không thể khiến cho người ta được đắc đạo. Nay ta được Phật đạo cũng nhờ tám giới này vậy.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Người trong thiên hạ phần nhiều lo việc gia đình, vì vậy ta đem pháp môn này khiến cho họ trong một tháng, sáu ngày trai tịnh giữ tám giới, nếu có người hiền thiện muốn mau được đạo A-la-hán. Nếu muốn mau đạt đạo A-la-hán, nếu muốn được sanh lên trời, phải tự ngay thẳng tâm mình, giữ ý cho chuyên nhất, một tháng mười lăm ngày trai tịnh cũng tốt, hai mươi ngày trai tịnh cũng tốt. Nhiều người lo việc gia đình cho nên mỗi tháng giữ sáu ngày trai tịnh, bảy ngày trai tịnh ấy, thí như nước biển không thể đong lường được. Nếu ai giữ trai giới trong một ngày một đêm, phước đức người đó không thể tính được.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Hãy đưa vợ, con trở về, tụng niệm tám giới trai pháp chơn chánh này.

Ưu bà di Ðọa xá ca đến trước đức Phật đảnh lễ rồi lui ra.

 

PHẬT NÓI KINH “ƯU BÀ DI ÐỌA XÁ CA”.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34612)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33430)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43902)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57027)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47539)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39413)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52911)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36586)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32229)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40435)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43463)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31437)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36164)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28682)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29212)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31866)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28795)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33344)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29111)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60967)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39719)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26642)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29639)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37342)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40069)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28274)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28884)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26176)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27792)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30451)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33260)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30057)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21833)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26708)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28601)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27686)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24340)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35411)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27429)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29994)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31749)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22997)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23007)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26638)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant